SUY NIÊM CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH_C
Lời Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35
ĐIỀU RĂN MỚI: LUÔN DUY TRÌ SỰ HIỆP NHẤT – + ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG – + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
ĐIỀU RẰN MỚI Ở CHỖ – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
THỰC THI và LOAN BÁO GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG – Phêrô Phạm Văn Trung
YÊU NHƯ CHÚA YÊU – Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
ĐẠO YÊU THƯƠNG – Anna Cỏ May
YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA YÊU – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
THẬT TUYỆT VỜI CÁI GIỚI RĂN... – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
ĐIỀU RĂN MỚI: YÊU THƯƠNG NHAU LUÔN DUY TRÌ SỰ HIỆP NHẤT
+ ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Trong suốt mùa Phục sinh, Phụng vụ cho chúng ta nghe nội dung sách Công vụ Tông đồ, mà thánh Lu-ca là tác giả. Như một phóng sự dài, chủ đề chính của cuốn sách này nói về hoạt động của các tông đồ, đời sống đức tin và sự phát triển của cộng đoàn Giáo hội tiên khởi. Tác giả khẳng định: Đấng Phục sinh luôn hiện diện giữa các tín hữu. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Lời Chúa nhanh chóng lan rộng và số tín hữu ngày càng thêm đông. Các tông đồ hăng say đi khắp mọi nơi để làm chứng về Chúa Giê-su phục sinh. Niềm xác tín nơi các ông mạnh mẽ đến nỗi các ông sẵn sàng chịu đau khổ, thậm chí chấp nhận cái chết, để làm chứng cho lời rao giảng của mình. Những địa danh khác nhau được tác giả sách Công vụ liệt kê (Bài đọc I), cho thấy nỗ lực loan báo Lời Chúa của các tông đồ và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Tuy vậy, dù phát triển nhanh chóng, cộng đoàn tín hữu cũng phải đối diện với những khó khăn từ phía người Do Thái. Họ đã giết Chúa Giê-su, người mà họ lên án là “phản loạn”, và nay họ tiếp tục tẩy chay các tông đồ và vu khống cho các ông mọi điều xấu xa. Hai vị tông đồ là Phao-lô và Bác-na-ba đã khích lệ động viên các cộng sự, củng cố tinh thần của họ, với lời khẳng định: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới được vào Nước Thiên Chúa”.
Cộng đoàn tín hữu của sách Công vụ Tông đồ trải dài trong lịch sử hai ngàn năm và hôm nay lan rộng toàn thế giới. Mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều là những người nối tiếp anh chị em tín hữu tiên khởi, tiếp tục sống đức tin và loan báo Lời Chúa, với niềm xác tín Chúa Phục sinh đang hiện diện, với tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã nối kết mọi nền văn hóa và mọi ngôn ngữ chủng tộc, đồng thời vẫn tôn trọng và lưu giữ những khác biệt. Giáo hội của Chúa Giê-su mang tính duy nhất trong những dị biệt, làm nên một Giáo hội phong phú đa dạng và cùng tôn thờ một Thiên Chúa là Cha chung của gia đình nhân loại, lấy đức yêu thương làm luật căn bản.
Các Ki-tô hữu tin vào sự hiện diện của Chúa Giê-su, và cùng nhau làm nên những cộng đoàn yêu thương. Từ thời ban đầu, Đạo Ki-tô được gọi với cái tên rất dễ mến là “Đạo yêu thương”. Lời mời gọi yêu thương của Chúa Giê-su chính là nền tảng cho các cộng đoàn Ki-tô hữu, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hồi tưởng giờ phút linh thiêng sau bữa tiệc ly. Chúa Giê-su đã truyền lại một di chúc quan trọng. Người gọi đó là “giới răn mới”. Yêu thương là điều kiện cốt yếu để trở nên môn đệ của Chúa Giê-su, đồng thời cũng là dấu chỉ để mọi người nhận ra Chúa Giê-su đang hiện diện nơi các tín hữu, cá nhân cũng như cộng đoàn.
Yêu thương là cốt lõi của Ki-tô giáo. Đó cũng là lời mời gọi thường xuyên được nhắc lại trong giáo huấn của Giáo hội. Tuy vậy, lời mời gọi này có nguy cơ trở thành một công thức lỗi thời và nhàm chán đối với một số tín hữu. Đây đó vẫn tồn tại những Ki-tô hữu chỉ mang danh nghĩa mà thiếu chiều sâu. Vì vậy đức tin không thực sự thấm nhập vào cuộc đời, để tác động và chi phối hành vi, lời nói và cử chỉ của các tín hữu. Vẫn còn đó những cộng đoàn chỉ sống đức tin một cách hình thức mà thiếu lòng đạo đức nội tâm. Một đức tin hời hợt, khi đối diện với thử thách hoặc tranh chấp quyền lợi, sẽ dễ bị nhường chỗ cho xung đột, chia rẽ và bất hòa.
Nếu Bài đọc I trích sách Công vụ Tông đồ, nhắc cho chúng ta về quá khứ, là thời sơ khởi của Giáo hội, thì Bài Tin Mừng lại là giáo huấn dành cho hiện tại, và Bài đọc II lại hướng chúng ta về tương lai. Thánh Gio-an đã được chiêm ngắm khung cảnh huy hoàng của Thiên Đàng, đó là Trời mới Đất mới. Nơi đó sẽ không còn nước mắt và tang tóc, nhưng tràn ngập niềm vui. Nơi đây, điều mà hai tông đồ Phao-lô và Bác-na-ba khích lệ các cộng sự: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” đã trở thành hiện thực. Khung cảnh Trời mới Đất mới là nguồn động viên chúng ta trong hành trình đức tin. Đó cũng là câu trả lời cho những vấn nạn về tương lai và hậu vận của con người. Đối với những ai tin cậy yêu mến Chúa, Ngài sẽ dành cho họ vinh quang vĩnh cửu. Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta ngay ngày hôm nay và trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, hãy cùng cộng tác với Người để đổi mới bộ mặt thế giới, làm cho tình yêu thương lan tỏa nơi mọi nẻo đường trần thế, và như vậy, Nước Thiên Chúa đang ngự đến giữa chúng ta.
+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
Vào đêm tối trước khi tự ý nộp mình chịu khổ hình. Chúa Giê-su đã dùng những từ ngữ thật cảm động, dễ mến, dễ thương, thấm đậm tình thầy trò trước lúc ra đi.
Biết rằng, đã đến giờ Người bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha. Ý thức về sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh sắp xảy ra cho mình. Chúa Giê-su đã dốc bầu tâm sự với các môn đệ: “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi” (Ga 13, 33). Sau đó, Chúa Giê-su đã đưa ra lời tuyên bố vô cùng quan trọng nhưng đôi khi bị hiểu lầm này: “Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35).
Câu hỏi được đặt ra: Phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu thương như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, con cái yêu thương cha mẹ, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là cổ hủ lỗi thời, hay khác với tình yêu Đức Ki-tô đã yêu chúng ta sao mà Người còn phải truyền dạy chúng ta một “Điều Răn Mới”? Mới ở chỗ nào khi tình yêu phát xuất từ con tim, lòng không yêu thì làm sao bắt buộc phải yêu?
Sự thật là, lệnh truyền của Chúa Giê-su cho các môn đệ: “Hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34) không phải là điều mới mẻ trong thời Tân Ước. Cựu Ước đã sử dụng những từ tương tự trong lệnh truyền “hãy yêu thương người lân cận như chính mình”. Đây là một điều răn cổ xưa ngay cả vào thời Chúa Giê-su. Điều răn này nói rằng, “Ngươi không được báo thù, cũng không được oán giận con cái dân sự mình, nhưng phải yêu thương người lân cận như chính mình: Ta là Đức Đức Chúa” (Lv 19,18).
Có người giải nghĩa rằng: Ðiều răn này mới vì đối tượng của nó là mọi người, kể cả kẻ thù. Đây là một nét mới và độc đáo. Tuy nhiên chưa đủ. Trong Điều Răn Mới của Chúa Giê-su, những từ ngữ quan trọng là: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34). Mới ở chỗ: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13, 34).
Chiều sâu của tình yêu này là đưa người Ki-tô hữu đến với người khác và thể hiện tình yêu đối với họ một cách hoàn toàn mới. Tình yêu mà Chúa Giê-su đã và đang dành cho những người theo Chúa sâu sắc hơn so với tình yêu được thể hiện trong câu “hãy yêu người lân cận như chính mình”. Chúa Giê-su muốn người Ki-tô hữu thể hiện tình yêu thương đối với người khác, không nên chỉ như chúng ta yêu chính mình, mà như Chúa Ki-tô yêu chúng ta.
Thực hành tình yêu “như Thầy đã yêu các con”, Chúa Giê-su đã sẵn lòng trả giá cho tội lỗi của chúng ta. Chính Người đã giải thích, “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13).
Cái giá lớn nhất phải trả cho tội lỗi chúng ta là sự đau khổ, tra tấn và cái chết khủng khiếp trên thập giá của Chúa Giê-su. Đó là tình yêu hy sinh mà Người đã dành cho toàn thể nhân loại. Nếu không có tình yêu đó, chúng ta sẽ không có hy vọng và không có cơ hội để sống mãi mãi.
Đây là thứ tình yêu mà Chúa Giê-su dành cho Giáo hội của Người và, qua điều răn mới của Chúa, Chúa muốn người Ki-tô hữu phải có. Vì yêu thương chúng ta, Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết, để chúng ta có thể giống như Người, được phục sinh và sống mãi mãi. Người đã đi bước trước để cứu rỗi chúng ta.
Câu hỏi khác được đặt ra: Phải chăng Điều Răn Mới của Chúa Giê-su có mâu thuẫn hay muốn thay thế Mười Điều Răn Đức Chúa Trời. Không, không có mâu thuẫn hay thay thế Mười Điều Răn; Nó chỉ tôn vinh và cho thấy chiều sâu tâm linh và ý định của luật pháp Chúa.
Mọi luật lệ của Chúa đều thể hiện tình yêu của Chúa. Luật lệ của Chúa, bao gồm hai điều răn lớn và tất cả 10 điều răn, là luật của tình yêu. Khi một tiến sĩ luật đến hỏi Chúa về “điều răn trọng nhất trong luật pháp”, Chúa Giê-su trả lời: “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mt 22,37-40). Chúa Giê-su đã trích dẫn những điều này từ Luật Mô-sê và giải thích rằng chúng tóm lại các luật khác.
Thánh Phao-lô cũng lưu ý rằng, tình yêu thương là cốt lõi của mọi điều răn của Chúa. Bằng cách tuân theo không chỉ chữ nghĩa của luật pháp mà còn cả tinh thần của luật pháp, chúng ta thể hiện tình yêu thương mà Chúa mong muốn. Ngài nói đến món “nợ tình thương”: ” Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8-10). Thì ra chúng ta phải mắc nợ nhau về tình mến. Sống không có tình yêu, không có lòng nhân ái, thì dù có nhà lầu, xe hơi, tiện nghi, vật chất dư dả, chúng ta vẫn cảm thấy không hạnh phúc và vui vẻ. Tình yêu làm cho chúng ta được hạnh phúc thật. Tình yêu là cốt lõi của Ki-tô giáo. Chúng ta hãy yêu thương nhau.
Chúng ta đã từng đọc khi có một chàng thanh niên đến gặp Chúa Giê-su để hỏi làm sao anh ta có thể đạt được sự sống đời đời. Chúa Giê-su truyền dạy anh: “Hãy giữ các đều răn” (Mt 19, 16-22).
Xin Chúa ban ơn để chúng con sống và thực hành Điều Răn Mới Chúa ban. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
THỰC THI VÀ LOAN BÁO GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG
1. YêuThương Nhau: Điều Răn Mới và Dấu Chỉ Của Người Môn Đệ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu để lại điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau.” Tình yêu này không chỉ là cảm xúc mà là sự hy sinh, phục vụ, và sẵn sàng hiến mạng sống vì người khác, như chính Chúa Giêsu đã làm: “Như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34).
Trong một trại tập trung thời chiến, một người lính canh phát hiện ra một nhóm tù nhân đang âm thầm chia sẻ cho nhau những mẩu bánh mì ít ỏi mà họ có. Người lính canh ngạc nhiên hỏi: “Các người là ai mà lại làm như vậy?” Một người tù nhân yếu ớt trả lời: “Chúng tôi là những người tin vào Chúa Giêsu. Ngài đã dạy chúng tôi yêu thương nhau.” Người lính canh lặng lẽ bước ra xa.
Yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương là dấu chỉ của người môn đệ của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 35) Thánh Gioan Kim Khẩu, một Giáo phụ thế kỷ thứ tư, đã nhấn mạnh rằng tình yêu là dấu chỉ rõ ràng nhất của đời sống Kitô hữu: “Không có gì làm cho chúng ta giống Chúa hơn là tình yêu dành cho tha nhân, kể cả kẻ thù” (Bài giảng số 71 về Tin Mừng Gioan). Tình yêu này trở thành chứng tá mạnh mẽ, lôi kéo người khác tin vào Chúa Kitô và sống yêu thương như Ngài.
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong thông điệp Deus Caritas Est – Thiên Chúa là Tình yêu (2005), khẳng định: “Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là bất khả phân ly, chúng làm nên một giới răn duy nhất. Cả hai đều xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa, Đấng thương yêu ta trước. Lúc đó sẽ không còn vấn đề của một giới răn áp đặt từ bên ngoài, bất khả thi, nhưng đúng hơn, từ một cảm nghiệm bên trong về một tình yêu được ban tặng, một tình yêu mà tự bản chất, phải được sẻ chia sau đó cho người khác” (số 18). Điều này nhắc nhở rằng tình yêu là trung tâm của sứ mạng Kitô hữu.
Trong những năm 1970, Mẹ Têrêsa Calcutta đã chăm sóc những người nghèo khổ nhất tại Kolkata, Ấn Độ, bất kể tôn giáo hay xuất thân của họ. Mẹ chỉ ăn bánh mì chấm với nước lã, nên chưa bao giờ Mẹ cân nặng hơn 45-46 kg. Một phóng viên đã hỏi Mẹ: “Thưa Mẹ, làm thế nào mà Mẹ có sức mạnh để tiếp tục sống như vậy?” Mẹ đã trả lời: “Tôi nhìn vào khuôn mặt của người nghèo, mà thấy mặt Chúa Giêsu”. Một lần, mẹ tìm thấy một người đàn ông Hindu đang hấp hối trên đường phố. Mẹ đã ôm ông vào lòng, rửa sạch vết thương, và ở bên ông cho đến khi ông qua đời, cảm nhận được tình yêu và phẩm giá con người. Hành động này đã khiến nhiều người tại Kolkata nhận ra sức mạnh của tình yêu Kitô giáo. Vào ngày Mẹ qua đời, mùng 5 tháng 9, 1997, toàn thể thế giới vỗ tay reo mừng. Trong Chúa Giêsu, Mẹ Têrêsa đã tìm thấy sức mạnh, để tiếp tục cuộc đua đường trường của Mẹ. Tình yêu mến Chúa Giêsu là động lực để phục vụ tha nhân và sống bác ái.
2. Loan Báo Tin Mừng Tình yêu Thiên Chúa Giữa Thử Thách
Về bản chất, truyền giáo là sự biểu lộ tình yêu biến đổi của Chúa thông qua cả lời nói và hành động. Nền tảng của việc truyền giáo đích thực nằm ở tình yêu thương của chúng ta với người khác – không phải là một khái niệm trừu tượng. Khi Chúa Giêsu phán “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35), Ngài đã thiết lập tình yêu thương như là dấu hiệu đích thực của những người theo Ngài.
Thật vậy, chỉ riêng các thực hành tôn giáo không làm nên công cuộc truyền giáo đích thực. Như Thánh Phaolô đã diễn tả một cách mạnh mẽ: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13:3).
Công cuộc truyền giáo đòi hỏi một cuộc sống hướng về Thiên Chúa và tha nhân, nơi các hoạt động tôn giáo không phải là mục đích mà là kênh dẫn tình yêu Thiên Chúa chảy vào một thế giới bị tổn thương. Sứ mệnh này đòi hỏi sự khiêm nhường chân thành, sự hoán cải cá nhân và phục vụ người khác, giúp mọi người có thể gặp gỡ tình yêu của Chúa qua lời nói và hành động. Việc truyền giáo thực sự diễn ra khi cuộc sống của chúng ta trở thành minh chứng sống động cho tình yêu của Thiên Chúa – không chỉ qua những cử chỉ lớn lao hay những bài phát biểu hùng hồn, nhưng qua cam kết hàng ngày để yêu thương cụ thể, phục vụ khiêm nhường và làm chứng một cách chân thực về sức mạnh biến đổi của sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc sống mỗi ngày. Đây là một công việc gian khổ, đòi buộc nhiều hy sinh, ngay cả đổ máu và hiến dâng mạng sống.
Hai Tông đồ Phaolô và Barnaba nhiệt thành loan báo Tin Mừng tại các thành phố Lycaonia, Lystra, Iconium và Antiochia. Dù đối mặt với sự chống đối và bách hại, các ngài vẫn kiên trì củng cố đức tin của các môn đệ, khuyến khích họ “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14:22). Sau khi hoàn thành sứ mạng, các ngài trở về Antiochia, thuật lại “tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Ngài đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin” (Cv 14:27).
Một Kitô hữu đến thăm một vị thiền sư và nói: “Xin thầy cho phép tôi đọc cho thầy nghe Bài Giảng Trên Núi”. Thiền sư đáp: “Tôi rất thích nghe”. Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước mắt lên nhìn. Thiền sư mỉm cười nói: “Đấng đã phán những lời đó chắc chắn phải là một vị đã Giác Ngộ”. Người Kitô hữu cảm thấy khoái trá. Ông tiếp tục đọc. Thiền sư ngưng lại rồi nói: “Những lời đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân loại”. Người Kitô hữu cảm thấy thích thú. Ông tiếp tục đọc cho đến hết. Lúc bấy giờ thiền sư tuyên bố: “Người đã rao giảng như thế phải là Thiên Chúa”. Nỗi vui mừng của người Kitô hữu thật vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một ngày khác, để thuyết phục thiền sư trở thành Kitô hữu. Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu đứng bên vệ đường. Ông đã thưa với Chúa một cách khoái trá: “Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng ra Chúa là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu mỉm cười và nói: “Con đã làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái tôi Kitô hữu của con mà thôi?” (Như Tiếng Chim Ca, LM Anthony de Mello, SJ).
Đời sống đức tin của người Kitô hữu không chỉ là lời rao giảng về Chúa Giêsu, mà còn phải nên giống như Ngài: “Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13: 1).
3. Trời Mới Đất Mới
Hình ảnh tuyệt đẹp về một “trời mới đất mới” nơi “Thiên Chúa ở cùng nhân loại... Ngài sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn than khóc, kêu la hay đau khổ nữa” (Kh 21:3-4) là lời hứa về nguồn hy vọng lớn lao, khẳng định rằng mọi đau khổ sẽ được thay thế bằng sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa, Đấng “làm cho mọi sự trở nên mới” (Kh 21:5).
Thánh Augustinô, trong tác phẩm Thành Đô Thiên Chúa, đã diễn giải viễn cảnh này như một lời mời gọi hướng lòng về quê hương vĩnh cửu: “Ở đó, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi và nhìn thấy, yêu mến và ngợi khen” (Thành Đô Thiên Chúa, XXII, 30). Viễn cảnh này không chỉ là niềm an ủi mà còn là động lực để các Kitô hữu sống đời sống thánh thiện giữa trần gian.
Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong tông huấn Gaudete et Exsultate – Vui mừng và Hân hoan (2018), nhấn mạnh rằng niềm hy vọng vào trời mới đất mới thúc đẩy chúng ta dấn thân xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương ngay hôm nay: “Chúng ta được mời gọi sống thánh thiện trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, để góp phần vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa” (số 26).
Nạn diệt chủng Rwanda năm 1994 còn được gọi là Diệt chủng người Tutsi, là vụ giết người hàng loạt do chính quyền Rwanda do đa số người Hutu lãnh đạo nhắm tới sắc tộc Tutsi ở nước này. Ước chừng 500.000 tới 1.000.000 người Rwanda, tức 70% dân số người Tutsi, và 30% người Pygmy bị sát hại trong khoảng 100 ngày, từ tháng 4 đến giữa tháng 07 năm 1994. Tuy thế, sau cuộc diệt chủng kinh hoàng đó, tại một ngôi làng nhỏ, nhờ gợi ý của một nhóm Kitô hữu từ cả hai bộ tộc, các bộ tộc đối địch đã cùng nhau xây dựng một trung tâm hòa giải. Họ tổ chức các buổi cầu nguyện chung, lấy cảm hứng từ sách Khải Huyền: “Đấng ngự trên ngai phán: Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21: 5), để chữa lành vết thương, tha thứ, hòa giải và xây dựng một cộng đồng mới.
Nỗ lực hòa giải và tha thứ này là dấu chỉ cho thấy trời mới đất mới có thể bắt đầu ngay giữa lòng thế giới đau khổ: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Ngài sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Ngài, còn chính Ngài sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 3-4).
Tình yêu là cốt lõi của mọi sứ mạng, là dấu chỉ nhận biết người môn đệ, là sức mạnh của Tin Mừng biến đổi thế giới, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói: “Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về tình yêu của chúng ta, về cách chúng ta yêu thương anh chị em mình, đặc biệt là những người yếu đuối và thiếu thốn nhất…Thiên Chúa ban cho chúng ta thời gian này với lòng thương xót và sự kiên nhẫn để chúng ta có thể học cách nhận ra Ngài mỗi ngày nơi những người nghèo và những người thấp hèn. Chúng ta hãy ra sức vì điều tốt lành và tỉnh thức trong lời cầu nguyện và tình yêu” (buổi tiếp kiến chung, thứ Tư, 24 tháng 4 năm 2013).
Phêrô Phạm Văn Trung
Kính thưa anh chị em,
Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới: anh em hãy yêu thương nhau; như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau” (Ga 13:34). Yêu như Chúa yêu là gì? Qua các sách Tin Mừng, chúng ta nhận thấy tình yêu của Chúa Giêsu – tình yêu agapē vô vị lợi và hy sinh – luôn bao gồm ba yếu tố thiết yếu: chấp nhận, kiên nhẫn, và quan tâm. Khi sống theo ba yếu tố này, chúng ta thực sự yêu thương như Chúa yêu. Sau đây, chúng ta cùng suy niệm về từng yếu tố và áp dụng trong đời sống Kitô hữu.
1. Chấp Nhận
Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ bằng cách chấp nhận cả những ưu điểm lẫn khuyết điểm của họ. Thánh Phêrô bốc đồng, huênh hoang, và đôi lúc kiêu ngạo (x. Mt 26:33-35). Hai anh em Gioan và Giacôbê tham quyền lực và danh vọng (x. Mc 10:35-37). Thế nhưng, Chúa Giêsu vẫn yêu thương và đồng hành với họ, không vì yếu đuối mà bỏ rơi.
Noi gương Chúa, chúng ta được mời gọi chấp nhận tha nhân – ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, giám mục, linh mục, bề trên, bề dưới – với tất cả những gì tốt đẹp lẫn bất toàn. Mỗi người đều có tính cách khác nhau, như tục ngữ nói: “Chín người mười ý”. Chúng ta hãy bao dung với cái hay và cái dở, cái giỏi và cái dốt, cái đẹp và cái xấu của nhau. Đặc biệt, khi tuổi già đến, con người phải đối diện với “tứ khổ” – sinh, lão, bệnh, tử [*] – dẫn đến những thay đổi về tâm lý, thể chất, và diện mạo. Xin hãy chấp nhận những đổi thay ấy với lòng yêu thương, như Chúa Giêsu đã chấp nhận các môn đệ.
2. Kiên Nhẫn
Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn với các môn đệ. Khi họ không hiểu các dụ ngôn, Người không la mắng hay khinh thường, nhưng kiên nhẫn giải thích khi chỉ có thầy trò với nhau (x. Mc 4:34). Khi các môn đệ nghi ngờ lời chứng của các phụ nữ về việc Chúa sống lại, cho rằng đó là “chuyện vớ vẩn” (Lc 24:11), Chúa Giêsu không nổi giận, nhưng nhẹ nhàng hỏi: “Sao anh em lại hoang mang? Hãy nhìn chân tay Thầy đây: chính Thầy đây! Cứ rờ mà xem: ma quỷ không có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24:38-39).
Chúng ta cũng được mời gọi noi gương Chúa Giêsu, kiên nhẫn trong việc giáo dục và hướng dẫn con cái, thanh thiếu niên, hoặc những người xung quanh. Đừng nản lòng trước những tính hư tật xấu, sự bất đồng, hay chống đối từ gia đình, cộng đoàn tu trì, hoặc giáo xứ. Kiên nhẫn là cách chúng ta thể hiện tình yêu agapē, giúp tha nhân dần thay đổi và trưởng thành trong đức tin.
3. Quan Tâm
Chúa Giêsu luôn quan tâm đến nhu cầu của các môn đệ và dân chúng. Người bảo các môn đệ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6:31), vì thấy họ bận rộn đến mức không có thời gian ăn uống. Với đám đông, Người chạnh lòng thương: “Ta chạnh lòng thương đám đám đông, vì họ lầm than như chiên không người chăn dắt” (Mt 9:36). Người lo lắng khi dân chúng đói: “Ta chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở với Ta đã ba ngày mà không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, kẻo xỉu dọc đường” (Mt 15:32).
Noi gương Chúa, chúng ta hãy quan tâm đến tha nhân, bắt đầu từ gia đình. Hãy thường xuyên thăm hỏi, an ủi, và giúp đỡ ông bà, cha mẹ, người già yếu, trẻ mồ côi, người khuyết tật, và những người nghèo khổ. Hãy hỗ trợ họ trong các nhu cầu thiết yếu: đi lễ, đọc kinh, nấu ăn, giặt giũ, vệ sinh nhà cửa, hoặc làm việc thiện nguyện như dạy giáo lý, giữ trật tự giáo xứ, và chăm sóc môi trường. Quan tâm là cách chúng ta sống tình yêu cụ thể, làm cho cộng đoàn giáo xứ trở nên ấm áp và sống động.
Kết Luận
Yêu như Chúa yêu không hề dễ dàng, vì “cái tôi” ích kỷ và tự ái trong mỗi người thường cản trở chúng ta. Tuy nhiên, với ơn Chúa, không gì là không thể (x. Lc 1:37). Hãy cậy dựa vào Thiên Chúa, siêng năng cầu nguyện, và xin Người ban ơn để chúng ta biết chấp nhận, kiên nhẫn, và quan tâm đến nhau. Nhờ đó, gia đình, cộng đoàn tu trì, và giáo xứ của chúng ta sẽ tràn đầy bình an và hạnh phúc.
Xin Chúa ban ơn để chúng ta luôn yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Chúc anh chị em một tuần mới vui vẻ, bình an, và luôn có Chúa đồng hành.
Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
[*] “Tứ khổ” (sinh, lão, bệnh, tử) là khái niệm phổ biến trong triết lý Á Đông, được dùng trong bài để chỉ những đau khổ tất yếu của kiếp người, phù hợp với thần học Công giáo về sự yếu đuối của con người trước ơn cứu độ.
Trong giờ cơm trưa ở xưởng may. Mai đang ăn cơm trưa, chị Loan đi tới:
-
Em bên đạo à?
-
Dạ, sao chị biết em là người bên đạo?
-
À, chị cứ thấy mỗi lần ăn cơm là em đưa tay khua trước mặt, miệng thì lắp bắp.
-
Dạ, em làm dấu Thánh giá để tạ ơn Chúa vì những của ăn mà Chúa đã thương ban cho em, chị ạ.
-
Đạo Thiên Chúa hay em nhỉ!
Thế là hai chị em rôn rả chuyện trò với nhau. Mai được dịp cho chị Loan nghe về đạo Thiên Chúa – đó là đạo yêu thương.
Làm dấu Thánh giá là dấu chỉ bên ngoài để mọi người nhận biết mình là kitô hữu. Khi làm dấu Thánh giá, người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Có rất nhiều người Kitô hữu thể hiện niềm tin cách mạnh mẽ. Họ công khai làm dấu Thánh giá mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên cũng không ít người lại muốn che dấu niềm tin của mình, họ ngần ngại và sợ hãi khi làm dấu Thánh giá ở chốn đông người hay chỉ là một nhóm bạn không cùng tôn giáo.
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người kitô hữu đi sâu vào cuộc sống của Thiên Chúa, một cuộc sống yêu thương. Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34). Vâng “hãy yêu thương nhau” là giới luật mà Thiên Chúa muốn mỗi người thực thi. Giới luật yêu thương là nấc thang giúp chúng ta đến gần Chúa và trở nên giống Ngài vì chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Nhìn lại chính mình, chúng ta tự xét xem mình là người thế nào? Một người tốt hay một người xấu; là người giàu có hay người nghèo khó; là người hiền lành hay người dữ dữ dằn. Dầu chúng ta là người thế nào, Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài tha thứ tất cả và đã hiến trao thân mình để cứu chúng ta. Đáp lại tình yêu Chúa, chúng ta cũng hãy yêu thương hết tất cả mọi người xung quanh dù họ thế nào.
Vì yêu như Chúa yêu, nên chúng ta không chỉ yêu ở môi miệng, ánh mắt mà còn yêu bằng những hành động cụ thể. Nhất là yêu cả con tim. Chúng ta mở lòng và đôi tay ra cho Thiên Chúa, để Ngài dùng chúng ta như khí cụ hữu hiệu. Chúng ta hãy bắt đầu yêu thương nhau từ chính những người thân trong gia đình chúng ta, là những người gần chúng ta nhất. Điều này không mấy dễ dàng, nhưng nó là điểm xuất phát cho mọi hoạt động phục vụ của chúng ta. Sống điều răn yêu thương là chúng ta trở nên những cộng sự viên của Chúa, trở nên những người con bé nhỏ và trở nên môn đệ của Ngài (x.Ga 13,35).
Lạy Chúa, yêu thương người khác thật là khó với mỗi người chúng con. nhưng đó là con đường để chúng con có hạnh phúc trên Nước Trời. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con quả tim biết yêu thương người khác. Để tình yêu Chúa được lan rộng khắp nơi và chúng con hưởng hạnh phúc trên Nước Trời. Amen.
Anna Cỏ May
Bài Tin Mừng hôm nay, tuy vỏn vẹn chỉ có bốn câu, nhưng chất chứa một sứ điệp thật quan trọng.
Trong hai câu đầu, Thánh sử trình bầy việc ra đi của Giu-đa. Hành động này của ông báo hiệu giờ của đêm tối đã đến. Vẫn biết rằng, tự bản chất, sứ vụ và nội dung các lời giảng dậy của Đức Giê-su đã gây ra nhiều cuộc tranh luận và đã tạo nên một làn sóng xung đột vô cùng căng thẳng với hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo, nói riêng tại đền thờ Giê-ru-sa-lem.
Việc Người bị giao nộp là chuyện đương nhiên sẽ xẩy ra. Nhưng đối với Thiên Chúa thì việc làm của Giu-đa hôm nay lại là cơ hội để Đức Giê-su làm trọn vai trò của Người. Do đó, một cách nào đó chúng ta có thể nhìn việc ra đi của ông giống như hình ảnh của bóng tối. Một khi bóng tối khuất đi thì ánh sáng sẽ xuất hiện.
Đức Giê-su không để cho hành động của Giu-đa ảnh hưởng trên sứ mạng của Người. Người biết sẽ phải làm gì. Người nói “giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.” Hành vi nộp Người của Giu-đa lại biến thành giờ để Đức Giê-su thực hiện và sống ơn gọi của Người một cách trọn vẹn nhất.
Qua đó, Chúa được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi việc Chúa bị treo lên. Treo lên để được tôn vinh. Kể từ giờ Con Người bị treo lên thì mọi gối đều phải quì xuống bái lậy mà tôn vinh Người. Cả cuộc đời của Người, bao gồm mọi khoảnh khắc trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giê-su luôn hướng về giờ mà Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người.
Và hôm nay trong giây phút thân tình với các môn đệ, Người đã tâm sự cho các ông biết ý nghĩa về việc được tôn vinh trong vâng phục của Người. Đức Giê-su cảm thấy bị xúc động khi Người phải từ giã các ông. Người trăn trối cho các môn đệ những điều mà Người đã ưu tư, ôm ấp và khát khao thực hiện.
Chúa phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” Điều Thầy ban cho các môn đệ đêm nay vô cùng quan trọng.
Trước tiên, Thầy không chỉ truyền lịnh. Nhưng Thầy đã trao cho những người bạn thiết nghĩa của Thầy chính cử chỉ và hành động mà Thầy đã thực hiện trong một bữa ăn, Những lời tâm sự của Thầy nằm trong bối cảnh của bữa tiệc ly, trong bữa ăn đó “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.” (Gio-an 13: 4-5) Hành động của Thầy khiến cho họ ngạc nhiên, nên Người đã giải thích “nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Gio-an 13: 13-14)
Kế đến, đó là lịnh truyền, giới răn, mệnh lệnh của Thầy yêu cầu.
Điều Thầy truyền hôm nay vô cùng mới mẻ. Nó khác với cách hành xử mà con người dành cho nhau. Vẫn biết rằng, đạo nào cũng dậy con người làm lành tránh dữ và yêu thương nhau. Nhưng, điều đặc sắc và mới mẻ mà Đức Giê-su tỏ bầy hôm nay, đó là yêu người như Chúa yêu. Đức Giê-su gọi việc làm đó là giới răn, điều luật để trở nên thành viên cho một nhóm; có nghĩa là từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, bằng chứng, bản chất và danh xưng của những người thuộc về nhóm mà người ta gọi là nhóm môn đệ được Chúa yêu thương.
Như vậy, yêu thương là bổn phận và là dấu chỉ chính thức của người môn đệ Chúa. Yêu thương theo mẫu mực của Chúa. Yêu thương như Chúa đã làm là quì xuống rửa chân cho kẻ kém hơn mình, rửa những vết thương hôi thối, rửa những lỗi lầm, xóa bỏ những hận thù ghen ghét đã tạo nên sự nghi kỵ và chia rẽ trong cộng đồng. Rửa chân không nhằm nói đến việc tự hạ cho bằng đó là dịp để Chúa sống trọn vẹn ơn gọi mà Người đã lãnh nhận từ Cha; và trao ban cho các môn đệ. Những việc làm này là bổn phận của mỗi Kitô hữu, môn đệ của Chúa.
Thật vậy, đạo mà chúng ta đang theo là con đường mà Chúa đã đi. Đó không chỉ bao gồm những điều phải tin, và cũng không chỉ gồm tóm những điều khoản phải giữ; nhưng là con đường yêu thương. Vì thế, cách sống đạo đích thật mà chúng ta cần thực hiện là hãy trao ban và đón nhận tình yêu như cách thức của Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần biết mục tiêu và đối tượng để giãi bầy tình yêu; bởi vì không ai trong chúng ta có thể nói rằng mình đang yêu nếu đối tượng mình yêu không thật sự hiện hữu. Sự hiện hữu của đối tượng cũng mang nhiều mức độ và nằm trong nhiều cảnh huống khác nhau. Nhưng, tất cả đều có một mẫu số chung, đó là nếu muốn thể hiện tình yêu thì chúng ta cần từ bỏ tháp ngà, ý riêng của chính bản thân, ra đi để gặp gỡ họ.
Họ là ai? Họ là anh, là chị hoặc tôi, những người thân quen trong gia đình, xóm giáo, các nhóm cầu nguyện và đặc biệt hơn nữa, Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bị bỏ rơi ở ngoài đường hay gầm cầu, phố chơ, v.v… Thiên Chúa và tha nhân đang chờ đợi bàn tay yêu thương, vỗ về, săn sóc và an ủi của chúng ta. Qua viêc làm trong yêu thương, chúng ta sẽ xoa dịu một phần những vết hằn mà người khác đang phải gánh chịu. Yêu thương là thế đấy.
Trong tình yêu không còn phân biệt giữa tôi và anh, giữa tôi và chị hay giữa tôi và kẻ khác nữa. Tất cả đều được hoà hợp trong một tổng thể duy nhất của lòng yêu thương, nơi đó không còn biên giới, không còn hận thù, tỵ hiềm hay chia rẽ; chỉ còn hiệp thông, tha thứ và bình an.
Nhưng trong thực tế, chúng ta vẫn sống theo tiêu chuẩn lấy lòng mình làm thước đo. Ai tốt với mình thì mình tốt lại. Chúng ta chưa dám dấn thân, cho đi trọn vẹn! Thật ra, việc dấn thân ra đi phục vụ trong yêu thương như mẫu mực của Chúa có tính cách của một sự tái sinh, trở về với Chúa và đổi mới cuộc đời. Và qua việc yêu thương nhau như Chúa yêu, chúng ta dễ dàng gặp Chúa hơn, một cuộc gặp gỡ thân mật để ta được tham gia vào sự sống của Chúa, được trở nên thành viên của cộng đoàn môn đệ mà Chúa yêu mến. Amen!
Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
THẬT TUYỆT VỜI CÁI GIỚI RĂN...
Ngày nọ, một linh mục nghe một thanh niên 16 tuổi nói với mình: “Thật tuyệt vời cái tôn giáo chỉ đòi hỏi một chuyện là yêu mến. Đức Giê-su thật tuyệt vời khi cho chúng ta một giới răn duy nhất là mến yêu!” Một thoáng im lặng rồi cậu dán mắt vào vị linh mục: “Phần cha, cha có thực hành giới răn của Đức Giê-su không?” Vị linh mục đã trả lời như mọi Ki-tô hữu, nếu không khó chịu, có lẽ sẽ trả lời: “Tôi đang cố gắng!”
1. Yêu thương như Thầy...
Đúng thế, lòng yêu mến gần như làm nên linh hồn, ý lực cho các diễn từ thời danh của Đức Giê-su trong bữa Tiệc ly được Gio-an ghi chép và được đoản văn Tin Mừng hôm nay lấy lại. Ngỏ lời với môn đệ, Đức Giê-su đề nghị với họ “giới răn mới của Người.” Nó “mới” vì là điều khoản căn bản và độc nhất của “giao ước mới” đã được Giê-rê-mi-a loan báo (31,21-34) và được cuộc Vượt qua của Đức Ki-tô khai mạc.
Đó là một tình yêu hỗ tương (“yêu nhau”) nhờ đó không ai ở trên người khác và tất cả đều cần tình thương của tha nhân. Đó là một tình yêu nghịch lý, ngược đời: thôi yêu người thân cận như chính mình, như Cựu Ước đã dạy (x. Lv19,18) và chính Đức Giê-su cũng đã dạy (x. Mt 22,39), nhưng yêu thương “như Thầy đã yêu thương anh em”, với chính sự hiến thân toàn diện và vô biên (đến độ hiến mạng) của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa.
Nhiều kẻ coi chữ “như” này tựa một liên từ so sánh: các môn đệ được kêu gọi bắt chước lối xử thế của Thầy mình. Thật ra, không chỉ biểu thị sự so sánh, liên từ đó còn biểu thị nguồn gốc của tình yêu mà Đức Giê-su đòi hỏi nơi các môn đệ. Thành ra có thể diễn dịch: “Anh em hay yêu thương nhau... vì Thầy đã yêu thương anh em, để anh em yêu thương nhau như Thầy” hoặc “Anh em hãy yêu thương nhau bằng tình yêu mà Thầy đã dùng để yêu thương anh em.” Nghĩa là “tình yêu của Chúa Con đối với các môn đệ làm phát sinh lòng bác ái nơi các môn đệ. Chính tình yêu của Người lưu chuyển đến họ, làm cho họ yêu mến anh em và được anh em yêu mến. Tình yêu của Đức Giê-su triển nở nơi các tín hữu mang dấu ấn tình yêu Chúa Cha” (x. Léon Dufour).
Cuối cùng, đó là tình yêu phải trở nên tấm thẻ độc nhất cho biết mình thuộc về cộng đoàn của Đức Ki-tô, trở nên bằng chứng sống động nhất cho thấy ta đã tin vào Người. Chính vì thế mà chân dung đẹp nhất của Giáo Hội mọi thời là chân dung được Lu-ca vẽ ra trong sách Công vụ: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (4,32).
Và như để minh họa cho giáo huấn tối hậu ấy trong giờ phút tối hậu ấy, có hai nhân vật và hai câu nói hết sức thảng thốt của Đức Giê-su: “Một kẻ trong anh em sẽ nộp Thầy!” Và “Gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba phen.” Hai thảm kịch này của tình bạn, của tình yêu làm sáng lên những gì Đức Giê-su vừa dạy cho cả nhóm. Giu-đa đã lao vào đêm tối (“ra khỏi phòng tiệc ly”) và y sẽ không thể trồi lên lại. Thất bại trong âm mưu đẩy Thầy tới chỗ dùng sức mạnh để tự cứu và rồi phát động một cuộc cách mạng bạo lực thay vì cách mạng tình thương, y sẽ lâm vào thất vọng đến độ tự sát, trở nên hình ảnh khủng khiếp của tuyệt vọng: tất cả chấm dứt với tôi rồi. Phê-rô cũng sẽ lường được lỗi lầm của mình, nhưng ông sẽ vẫn ở lại trong tình yêu. Ông chắc chắn mình còn được yêu mến và còn có thể yêu mến. Chính cái “còn” này giúp ông không chìm đắm vào thất vọng, như thánh ca Mùa chay hay nhất hát lên: “Không đêm tối nào mà chẳng hy vọng ánh sáng. Không gì chấm dứt với Thiên Chúa cả.”
Khi nghĩ rằng Thiên Chúa không thể tha thứ cho mình, chúng ta trở thành Giu-đa. Đang khi chúng ta luôn có thể trở thành Phê-rô và nghe được lời làm cho chúng ta sống lại: “Con có yêu mến Thầy không?” Chính cái đó mới đáng kể: “Con có yêu mến Thầy không?”
2. Yêu thương ngay cả...
Nghe những giáo huấn ấy, nhìn những tấm gương ấy, những tấm gương còn kéo dài qua lịch sử Giáo Hội, trong đời sống các Ki-tô hữu đích thực, thậm chí trong đời sống của biết bao người lành ngoại đạo, tất cả chúng ta có lẽ đều nuôi dưỡng ước mơ thầm kín là một ngày nào đó, rốt cục chúng ta sẽ thật sự đặt cược đời mình trên tình huynh đệ. Ta sẽ yêu thương ngay cả X... đúng như bản chất anh ấy, ngay cả Y... sau những gì chị ấy đã làm cho ta. Chúng ta cảm thấy rõ ràng chọn lựa của tình yêu là như thế, không chùn lại khi điều đó trở nên khó khăn. Đi cho đến cùng một chọn lựa cứng rắn: bằng bất cứ giá nào, tôi vẫn muốn yêu thương, tôi sẽ chẳng để cho quyết định thương yêu của mình cao bay xa chạy.
Chúng ta sẽ chẳng luôn luôn đạt tới đó, nhưng có thể đạt tới chỗ chẳng bao giờ cho mình những lý do để bỏ cuộc, chẳng bao giờ quyết định rằng trong một hoàn cảnh nào đó, đối với một ai đó, chúng ta không có bổn phận yêu thương. Chính tính vô điều kiện ấy của tình yêu xét như quy luật sống tuyệt đối bất khả xâm phạm mới biến ta thành Ki-tô hữu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” Ở điểm duy nhất này. Không có ba mươi sáu điểm, không có hàng trăm điểm!
Đúng! Cho tới khi xảy ra với X... hay với Y... một cái gì đó khiến chúng ta nói: “Đến đây thì không thể yêu thương nổi, Thiên Chúa đâu có đòi hỏi tôi một chuyện như vậy.” Người đòi hỏi đấy! Nếu chúng ta chẳng tin rằng mình là những kẻ được gọi là làm điều không thể, thì hãy khép sách Tin Mừng lại đi! Bí quyết lớn lao của Tin Mừng, đó chẳng phải là dạy ta “hãy yêu thương”, nhưng là bảo rằng ta có thể làm điều ấy vì ta là những kẻ đã được cứu chuộc. Được cứu chuộc bởi Đức Giê-su Ki-tô, điểu đó muốn nói ta có thể yêu thương như Người: “Với Đấng đã chiến thắng sự chết, bạn có thể làm những điều bất khả” (Chiara Lubich). Và thành thử là yêu thương ngay cả X... ngay cả Y... Thay vì lải nhải: “Chúng ta hãy yêu thương nhau”, hãy dám can đảm đương đầu với khó khăn hiện thời của mình: “Tại sao tôi đang căm ghét X..., oán hận Y...?”
Chúng ta biết rõ mình đôi khi có những lý do mạnh mẽ để bỏ rơi hay căm ghét một ai đó. Nhưng chọn lựa yêu thương của ta phải đi đến chỗ điên rồ cuối cùng, điên rồ lớn nhất của Tin Mừng: yêu thương ngay cả trong một cuộc tranh chấp, đi đến chỗ chẳng nói xấu chút nào kẻ thù của ta, không cầu mong điều dữ song là điều lành cho đương sự, cho dẫu phải chống lại đương sự.
Vì không có chuyện chạy trốn trước một xung đột khả dĩ. Các Ki-tô hữu chẳng chống lại gì trong thế giới chúng ta như hiện thời đều là những kẻ ích kỷ và có lẽ là những kẻ hèn nhát, chứ chẳng phải là môn đệ của Đức Ki-tô. Chúng ta được mời gọi yêu thương trong các cuộc xung đột và điều đó có thể dẫn tới chỗ gây ra một xung đột nhân danh công lý, vì công lý là một trong những khuôn mặt cao cả của tình yêu. Bác ái không thể định nghĩa được bằng ngôn từ “cảm tính” hay “sủng mộ.” Oliver Clément viết: bác ái “đâu phải là đường, nó là muối!” Ngôn từ của bác ái “không bạc nhược, nhưng dũng cảm.” Bác ái đích thật không tránh né bạo lực, mà là chuyển đổi nó thành việc tranh đấu trong cuộc sống, là tạo lập Công bình và bênh vực Sự thật. Trước những áp bức bạo hành đang nhan nhản, những dối trá lừa lọc đang tung hoành, những bất công kỳ thị đang giáng xuống những kẻ yếu thế, Ki-tô hữu không thể nhân danh bác ái để chỉ nở nụ cười xuề xòa, đưa bàn tay thỏa hiệp, giữ im lặng đồng lõa, nói những ngôn từ hết sức mang tính “ngoại giao.” Họ phải lên tiếng và hành động giải thoát các nạn nhân để đồng thời giải cứu các đao phủ!
Chúng ta cũng được mời gọi yêu thương những kẻ lắm chuyện, hay gây phiền nhiễu, những kẻ chúng ta phê phán là không thể chịu nổi và đó có lẽ là thật, nhưng điều ấy chẳng xóa bỏ yêu cầu của Đức Giê-su: Hãy yêu thương! Chính trên yêu cầu này mà trong vài lúc nào đó chúng ta định đoạt cuộc đời chúng ta. Nếu ai đó, đọc thấy điều này, hiểu rằng mình được yêu cầu làm một bước kinh khủng, hết sức điên rồ, đương sự hãy cầu nguyện và tiến tới, lê mình tới: đương sự sẽ chẳng bao giờ gần gũi Đức Ki-tô như vậy đâu.
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi.
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.