SUY NIÊM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C
Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29; Kh 21,10-14.22-23; Ga 14,23-29
TÌNH YÊU ĐÍCH THỰC – + ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
NHÂN LOẠI ĐANG RẤT CẦN BÌNH AN GIÊ-SU – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
YÊU MẾN CHÚA GIÊSU VÀ TUÂN GIỮ LỜI NGÀI – Phêrô Phạm Văn Trung
YÊU NHƯ CHÚA YÊU TA – Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
CHÚA THÁNH THẦN: KIẾN TRÚC SƯ CỦA SỰ HIỆP NHẤT TRONG ĐA DẠNG – Jos. Vinc. Ngọc Biển
TÌNH YÊU THÚC ĐẨY TÌNH YÊU – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN VÀ BAN BÌNH AN – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
BÌNH AN LÀ KẾT QUẢ CỦA TÌNH YÊU – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Chuẩn bị mừng lễ Thăng Thiên, Phụng vụ hôm nay lại đưa chúng ta trở về với phòng Tiệc ly, để lắng nghe những di ngôn của Chúa Giê-su. Đây là những lời “gan ruột”, những lời tâm huyết của một người thày sắp đi xa, và muốn truyền lại cho môn sinh những lời dặn dò quan trọng. Tâm tình với các môn đệ, Thày Giê-su nhắc đi nhắc lại chữ “yêu mến”. Đó không phải là một thứ tình yêu công thức mờ nhạt trống rỗng, nhưng đó là một tình yêu được chứng minh qua việc tuân giữ lời giáo huấn của Thày, trong cuộc sống hằng ngày.
“Ai yêu mến Thày thì sẽ giữ lời Thày!”. Điều kiện đã rõ ràng. Ở đời này người ta thường nói đến tình yêu thương và tình huynh đệ, nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở công thức hay lối nói xã giao. Chúa Giê-su không dừng lại ở thứ tình yêu môi miệng, nhưng là tình yêu thực hành. Ai yêu mến Chúa thì phải chứng minh bằng việc tuân giữ lời giáo huấn của Người. Để biết giáo huấn của Người là gì, thì phải ôn lại hay đọc lại những gì được viết về Người. Trong tình trạng hiện nay, ngoài xã hội cũng như nơi các cộng đoàn đức tin, tình yêu chân thành là một điều rất khó tìm. Tệ hơn nữa, người ta đối xử với nhau có phần “hoang dã” trong xã hội và “vô cảm” ngay cả đối với những người thân. Để xây dựng một cộng đoàn tín hữu đúng nghĩa, chúng ta phải đặt tình yêu thương ở trọng tâm. Mọi hoạt động mục vụ đều quy hướng về tình yêu thương huynh đệ nội bộ, nhờ đó có khả năng loan truyền tình yêu thương của Đức Giê-su. Tình yêu phải là “linh hồn” cho các gia đình và cộng đoàn tín hữu.
Khi nói đến tình yêu thương theo khuôn mẫu của Chúa Ki-tô trong Phúc âm, có thể mỗi người chúng ta cho đó là điều không thể thực hiện. Chúa Giê-su đã thấy điều này. Người hứa với các môn đệ (và với chúng ta) là Người sẽ xin Chúa Cha ban Đấng Bảo trợ, tức là Chúa Thánh Thần. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, những điều xem ra không tưởng lại nằm trong tầm tay và khả năng của chúng ta.
Lịch sử hình thành và sự phát triển của Giáo Hội Ki-tô là bằng chứng mạnh mẽ về hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúa Giê-su đã giữ lời hứa. Chúa Thánh Thần được ban xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần. Ngài hiện diện nơi các tông đồ và nơi các Ki-tô hữu. Nhờ Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội luôn trường tồn và bền vững trước mọi thách thức của trần gian. Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ vụ của Chúa Giê-su và đang hoạt động qua những con người bằng xương bằng thịt là chính chúng ta, nhằm xây dựng Giáo Hội tùy theo bậc sống, chức vụ và khả năng của mình.
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, các tông đồ đã ý thức về sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Công nghị Giê-ru-sa-lem đã được triệu tập (vào khoảng năm 46 SCN) để bàn về các nghi thức và tập tục trong các cộng đoàn Ki-tô hữu. Trong “văn kiện” đầu tiên của Giáo Hội, các tông đồ đã khẳng định: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định”. Hai mươi thế kỷ qua, những quyết định chính thức của Giáo Hội đều có ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Việc bầu Giáo hoàng vừa qua cũng đã chứng minh điều ấy. Thể thức bầu một vị Giáo hoàng mang tính độc đáo, khác biệt hoàn toàn với các thể thức bầu lãnh đạo quốc gia hoặc các tổ chức xã hội khác. Điều căn bản cho việc bầu Giáo hoàng là có ơn soi sáng và tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa không bỏ rơi Giáo Hội của Người, nhưng đã cử Thánh Thần để hướng dẫn chúng ta.
Giáo Hội của Chúa Ki-tô không chỉ mang chiều kích hiện tại, mà luôn hướng về tương lai. Thánh Gio-an tông đồ chia sẻ với chúng ta về khung cảnh thành Giê-ru-sa-lem trên trời. Hình ảnh Con Chiên được nhấn mạnh, như trung tâm điểm của Đền thánh tương lai. Dưới lăng kính Ki-tô giáo, thành thánh Giê-ru-sa-lem chính là thiên đàng mà Chúa hứa ban cho những ai yêu mến và tuân giữ Lời Người. Đây là nơi dành cho những người dành cho Đức Giê-su một tình yêu đích thực.
Hành trình theo Chúa Giê-su của người tín hữu hướng tới một tương lai. Đó là nơi Chúa Giê-su đã đi trước để mở đường và dọn chỗ cho chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta lòng trung thành với Người, bằng việc đọc và tuân giữ Lời Chúa, nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Amen. mục lục
+ ĐTGM. Giu-se Vũ Văn Thiên
NHÂN LOẠI ĐANG RẤT CẦN BÌNH AN GIÊ-SU
Trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, bình an luôn là khát vọng thiêng liêng và bất tận của con người. Đây không chỉ là trạng thái không có chiến tranh, mà còn là điều kiện tiên quyết để con người sống và yêu thương nhau. Quả thật, con người ở mọi nơi mọi thời luôn khao khát bình an, muốn sống tự do, hạnh phúc, không có chiến tranh. Thế giới hòa bình giúp con người ngồi lại với nhau, bắt tay nhau xây dựng địa cầu.
Trải qua bao thăng trầm, nhất là trong thế kỷ XX đầy biến động với hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt cuộc xung đột khu vực, nhân loại đã rút ra một chân lý không thể chối cãi: chiến tranh chưa bao giờ là lối thoát, hoà bình mới là đích đến.
Thực tế cho thấy, chiến tranh dưới bất kỳ hình thức nào, luôn đi kèm với những hệ lụy, không chỉ tàn phá cơ sở vật chất, chiến tranh còn để lại những vết thương tinh thần kéo dài qua nhiều thế hệ. Từ những thành phố đổ nát ở Ukraine, Dải Gaza, Sudan đến Yemen, Lebanon, Myanma…, hàng chục triệu người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa, trở thành nạn nhân của các cuộc chiến mà họ không hề lựa chọn.
Báo cáo mới nhất của Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cho biết, thế giới hiện có hơn 114 triệu người phải di tản, con số cao nhất trong lịch sử hiện đại. Nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua, dân thường, trẻ em và phụ nữ.
Giữa tiếng bom rơi và các loại máy bay tối tân gào rít trên bầu trời ở một số quốc gia, máu của người dân ở dải Gaza và ở Trung Đông cùng cuộc xung đột Nga – Ukraina kéo dài hơn 2 năm nay, đã và đang cướp đi hàng triệu người dân vô tội.
Nền hòa bình của nhân loại đang bị đe dọa nghiêm trọng. Những người có lương tri trên thế giới luôn theo dõi sát sao và kêu gọi các bên liên quan ngừng bắn để ngồi lại với nhau giải quyết thông qua đàm phán hòa bình.
Trong bối cảnh đó, “bình an” càng trở nên có ý nghĩa. Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, bình an không còn là điều hiển nhiên, mà là một lựa chọn có ý thức. Bình an cần được nâng niu, trân trọng và gìn giữ
Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…” (Ga 14,27). Thế giới hiện nay đang khao khát bình an của Chúa.
Bình an của Đức Ki-tô
“Bình an cho anh em!” (Lc 24,36) là lời đầu tiên của Chúa Giê-su sau khi sống lại và hiện ra với các môn ngày thứ nhất trong tuần.
Câu hỏi được đặt ra: Tại sao là ‘bình an’ mà không phải là giàu sang, tài giỏi, sức khỏe hay điều gì khác?
Thưa, vì nếu con người có tất cả những thứ đó mà không có bình an thì coi như chẳng có gì. “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi. Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giê-su sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi. “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết. Thế nên, với nghĩa nặng tình sâu trong tình thầy trò, đang lúc các môn đệ ưu sầu lo lắng. Chúa Giê-su nói với các ông: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Người ban cho họ bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng.
Tại sao bình an của Chúa Giê-su thế gian không thể ban tặng?
Thưa, vì Chúa Giê-su chính là bình an; là nguồn bình an, Người ban cho các các môn đệ chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa sự hiểu của con người. Có bình an Giê-su, con người các ông hoàn toàn đổi mới, ngờ vực trở nên vững tin, nhút nhát nên người can đảm, sống cửa đóng then cài, nay đi rao giảng Chúa Giê-su chết bị chôn trong mồ đã sống lại hiển vinh, mà chính các ông làm chứng, không sợ chết.
Bình An có tên là Giê–su
Chúa Giê-su chính là bình an đích thực. Có bình an của Chúa Giê-su đồng nghĩa với có chính Chúa, “Bình An Giêsu”. Có được Bình An Giê-su người ta sẽ cảm nhận được tâm hồn thanh thản, thể xác lành mạnh, bình an cả xác hồn. Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.
Bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại. Chúa Giê-su đã chào các môn đệ: “Bình an cho các con”, Người cũng truyền cho các ông: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này” (Lc 10, 5-6).
Chúa Giê-su là chính sự bình an: “Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”. Các ông chỉ có được khi tuân giữ lệnh Chúa truyền là “yêu thương nhau” (Ga 13, 34).Về vấn đề này, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói: “Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương. Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe doạ không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hoà bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67).
Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ. Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5, 44), thay vì luật báo thù. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Báo thù không dẫn đến hoà bình. Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự, vì Thiên Chúa là Tình yêu là nguồn bình an (Ga 4, 8, 16; Rm 16, 20).
Lạy Chúa, xin thương ban cho Hội Thánh được hiệp nhất và bình. Amen. mục lục
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
YÊU MẾN CHÚA GIÊSU VÀ TUÂN GIỮ LỜI NGÀI
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần trong bài từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Ngài chịu khổ nạn. Đây là lời dạy về mối tương quan tình yêu dành cho Chúa, sự vâng phục Lời Ngài, vai trò của Chúa Thánh Thần, và ân huệ bình an mà Chúa Giêsu để lại cho những ai tin theo Ngài.
1. Tình yêu và sự vâng giữ Lời
Chúa Giêsu khẳng định: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14:23). Lời này nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa tình yêu và sự vâng giữ Lời Chúa. Yêu mến Chúa Giêsu không chỉ là cảm xúc, mà phải được thể hiện qua hành động cụ thể: tuân giữ lời của Ngài.
Thánh Augustinô đã giải thích về tình yêu này: “Tình yêu dành cho Chúa không nằm ở lời nói, mà ở hành động. Người yêu mến Chúa là người sống theo ý muốn của Ngài” (Bài giảng về Tin Mừng Gioan, 74.2). Thánh nhân nhắc nhở rằng tình yêu đích thực phải được chứng minh qua đời sống đức tin, như Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13: 34-35) và “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:10).
Chị Hiền, 45 tuổi, là một người Công giáo sống ở giáo xứ Thái Hà, trong một khu phố nhỏ ở Hà Nội. Hàng ngày, chị đẩy chiếc xe ba gác đi khắp các con hẻm để nhặt ve chai, kiếm tiền nuôi hai con ăn học. Dù cuộc sống khó khăn, chị luôn tham gia các hoạt động bác ái của giáo xứ và sẵn lòng giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình. Một lần, khi đang nhặt ve chai gần ga Hà Nội, chị Hiền thấy một ông lão ăn xin, khoảng 70 tuổi, nằm co ro trên vỉa hè, quần áo rách nát và run rẩy vì đói. Ông lão tên là Tâm, thường gọi là cụ Tâm, từng phục vụ trong quân đội nhưng gia đình mất hết trong chiến tranh và giờ sống lang thang.
Không do dự, chị Hiền lấy 40.000 đồng - gần nửa số tiền chị kiếm được hôm đó - để mua một hộp cơm và chai nước cho cụ Tâm. Chị còn lấy chiếc áo khoác cũ trong xe ba gác, vốn để dành cho con trai, đưa cho cụ để giữ ấm. Khi cụ Tâm cảm ơn, chị Hiền nói: “Con chẳng có gì nhiều, nhưng con học từ cha xứ rằng giúp người nghèo là giúp Chúa Giêsu. Cụ ăn cho khỏe, con cầu nguyện cho cụ.”
2. Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ và Thầy dạy
Chúa Giêsu hứa ban Đấng Bảo Trợ, tức Chúa Thánh Thần, để dạy dỗ và nhắc nhở các môn đệ: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26). Vai trò của Chúa Thánh Thần là tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu: “Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13).
Hội Thánh sơ khai ý thức rõ sự hướng dẫn của Thánh Thần khi giải quyết các tranh luận, từ đó đưa ra quyết định phù hợp với tinh thần của Chúa Giêsu: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết” (Cv 15: 28). Thánh Thần là Đấng bảo trợ và hướng dẫn Hội Thánh trong việc áp dụng Lời Chúa vào hoàn cảnh mới “là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa” (Cv 15: 19).
Thánh Basiliô Cả, nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần là “Đấng soi sáng tâm trí, ban sự khôn ngoan để hiểu biết các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (Thánh giáo phụ thế kỷ IV, nói về Chúa thánh Thần, 9.23). Nhờ Chúa Thánh Thần, các môn đệ không chỉ nhớ lại lời dạy của Chúa Giêsu mà còn được ban sức mạnh để sống và loan báo Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh.
Câu chuyện Chị Hiền kể trên không dừng lại ở chỗ chị cho cơm áo, tiền bạc, mà Chị còn liên lạc với nhóm thiện nguyện của giáo xứ Thái Hà, nhờ tìm chỗ ở tạm cho cụ Tâm. Nhờ sự hỗ trợ đó, cụ Tâm được đưa đến một mái ấm do giáo phận Hà Nội quản lý, nơi cụ được chăm sóc và sống những ngày tháng an ổn hơn. Dù nghèo, chị Hiền, đã nhìn thấy Chúa Giêsu nơi cụ Tâm, và nhờ Chúa Thánh Thần giúp sức, soi sáng, Chị đã trở thành chứng nhân của tình yêu thương không cần phải giàu có, chỉ cần một trái tim biết sẻ chia. (Công giáo và Dân tộc, số 245, tr. 15, 12/10/2023).
3. Bình an của Chúa Giêsu, ân huệ vượt trên thế gian
Chúa Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14:27). Bình an mà Chúa Giêsu ban tặng không phải là sự vắng bóng khó khăn, mà là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa những thử thách. Lời Ngài: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14: 27) khuyến khích các môn đệ tin tưởng vào sự chăm sóc của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu ban bình an “không theo kiểu thế gian” (Ga 14:27), với sự yên ổn tạm thời của thế gian, nhưng bắt nguồn từ mối tương quan sâu sắc với Thiên Chúa để các môn đệ không sợ hãi trước những thay đổi. Quyết định của Công đồng Giêrusalem giải tỏa căng thẳng giữa người Do Thái và dân ngoại, mang lại sự hiệp nhất và bình an cho Hội Thánh, “và làm cho họ được vững mạnh” (Cv 15:31). Đức Giáo hoàng Phanxicô giải thích: “Bình an của Chúa Giêsu là món quà nội tâm, giúp chúng ta đứng vững trước những giông tố của cuộc đời” (Bài giảng ngày 17/5/2020).
Năm 2021, trong đợt dịch COVID-19 bùng phát mạnh ở Sài Gòn, anh Phêrô Trần Văn Hùng, 40 tuổi, giáo xứ Tân Định, quận 3, Sài Gòn, chịu một cú sốc lớn khi mẹ anh, bà Anna, qua đời vì nhiễm virus. Do các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt, anh không thể ở bên mẹ trong những giờ phút cuối đời, và tang lễ chỉ được tổ chức đơn sơ với vài người thân. Nỗi đau mất mẹ, cộng với áp lực kinh tế khi công việc xe ôm gần như dừng hẳn, khiến anh Hùng rơi vào khủng hoảng. Anh chia sẻ trong một buổi sinh hoạt nhóm: “Tôi cảm thấy như Chúa đã bỏ rơi tôi. Tôi sợ không biết gia đình mình sẽ sống thế nào.”
Tuy nhiên, trong một buổi cầu nguyện trực tuyến do giáo xứ tổ chức, anh Hùng được nghe cha phó xứ giảng “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14: 27). Lời Chúa như một tia sáng soi chiếu tâm hồn anh. Anh bắt đầu dành thời gian cầu nguyện nhiều hơn, suy niệm về sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa những khó khăn. Anh nói với vợ: “Chúa không hứa cho ta cuộc sống dễ dàng, nhưng Ngài hứa ban bình an. Mình phải tin Ngài đang ở đây.”
Với niềm tin mới mẻ, anh Hùng tham gia nhóm thiện nguyện của giáo xứ Tân Định để phân phát thực phẩm cho những người bị giữ lại trong khu cách ly. Dù bản thân cũng thiếu thốn, nhưng anh cảm thấy lòng mình thanh thản hơn khi giúp đỡ người khác. Anh chia sẻ: “Khi tôi mang gạo đến cho những gia đình nghèo, tôi thấy như đang gặp Chúa. Bình an của Ngài giúp tôi vượt qua nỗi buồn và sợ hãi.”
Cộng đoàn giáo xứ, biết được hoàn cảnh của anh Hùng, đã hỗ trợ gia đình anh thực phẩm và một khoản tiền nhỏ để vượt qua giai đoạn khó khăn. Đến năm 2022, khi Sài Gòn dần hồi phục sau đại dịch, anh Hùng trở lại công việc và tiếp tục tham gia các hoạt động bác ái, như một cách tạ ơn Chúa vì bình an Ngài đã ban (Tạp chí Hiệp Thông, Tổng Giáo phận TP.HCM, số 131, tr. 22, tháng 3-4/2022).
Đó là sự bình an vượt trên xáo trộn mà Chúa Giêsu hứa, không còn “xao xuyến sợ hãi” (Ga 14: 27) như trong thành thánh Giêrusalem trên trời “không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:4).
Mọi xung khắc, tranh luận, như luật cắt bì, đều được giải quyết khi con người để Thánh Thần dẫn lối, hướng về Chúa Kitô, Đền Thờ Giêrusalem Thiên Quốc đích thực, là đích đến của mọi Kitô hữu, nơi mọi phân biệt xưa cũ bị tan biến trong ánh sáng vinh quang của Con Chiên.
Hôm nay, chúng ta hãy để Lời Chúa Giêsu vang vọng trong tâm hồn: yêu mến Ngài, giữ lời Ngài, và đón nhận Thánh Thần và bình an của Ngài. Chúa Kitô là Con Chiên, là nguồn sống và ánh sáng cho dân Ngài, phá vỡ mọi ranh giới bất hòa của luật lệ phàm nhân để mở ra một giao ước mới trong Thánh Thần, trong thành Giêrusalem mới, có “Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành” (Kh 21: 22). mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã cùng nhau suy tư về việc noi gương Chúa Giêsu để yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta, thông qua việc thực hành ba nhân đức: quan tâm, kiên nhẫn, và tha thứ. Chúng ta đã nhấn mạnh rằng việc quan tâm cần bắt đầu từ gia đình, nơi con cái chăm sóc cha mẹ già cả về tinh thần lẫn vật chất, và cha mẹ lưu tâm đến đời sống tâm linh, việc học giáo lý, tham dự thánh lễ, cầu nguyện, cũng như các nhu cầu vật chất và tâm lý của con cái. Hôm nay, tôi xin tiếp tục chia sẻ phần hai của bài suy tư này, mời gọi anh chị em sống các nhân đức ấy trong đời sống giáo xứ và cộng đoàn.
Quan tâm đến giáo xứ và cộng đoàn
Là giáo dân, chúng ta được mời gọi quan tâm đến các sinh hoạt và hoạt động của giáo xứ, nơi chúng ta tham dự thánh lễ mỗi Chúa Nhật. Tôi khuyên anh chị em hãy ghi danh gia nhập giáo xứ, trở thành những con chiên trung thành của Chúa. Hãy đóng góp tài chính, tài năng, công sức, và lời cầu nguyện để hỗ trợ giáo xứ. Những đóng góp này giúp giáo xứ có phương tiện chi trả lương bổng, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm cho nhà thờ, nhà xứ, hội trường, cũng như các chi phí điện, nước, gas, và vệ sinh. Sự quan tâm của anh chị em sẽ góp phần xây dựng một cộng đoàn vững mạnh, tràn đầy tình yêu Chúa.
Kiên nhẫn và tha thứ
Bên cạnh sự quan tâm, chúng ta cần thực hành nhân đức kiên nhẫn và tha thứ, hai nhân đức luôn song hành và không thể tách rời. Là cha mẹ, khi con cái lỡ tay làm vỡ một cái chén, một bình hoa quý giá, hoặc gây tai nạn khi lái xe, xin hãy kiên nhẫn và tha thứ bằng sự thinh lặng. Đừng la mắng, sỉ nhục, hay thốt ra những lời trách móc cay nghiệt, cũng đừng để sự giận dữ khiến gương mặt trở nên cau có. Trong lúc nóng giận, những lời nói thiếu suy nghĩ có thể làm tổn thương sâu sắc đến trái tim của nhau.
Là giáo dân, khi nghe những lời bàn tán hoặc chứng kiến những hành vi thiếu yêu thương, thiếu tế nhị, hay thậm chí bê bối của một giám mục, linh mục, hay tu sĩ, xin hãy kiên nhẫn và tha thứ. Hãy cầu nguyện cho họ, vì họ cũng là những con người yếu đuối, mang nhiều khiếm khuyết và tội lỗi. Tương tự, là linh mục hay tu sĩ, khi đối diện với những lời nói thiếu thiện cảm, những ý kiến trái chiều, hay sự khiêu khích từ người khác, xin hãy giữ sự thinh lặng và mỉm cười. Đừng để sự nóng nảy hay bực bội làm mất đi sự bình an trong tâm hồn, bởi giận dữ không chỉ làm tổn hại sức khỏe mà còn cản trở hành trình nên thánh.
Kết luận: Yêu thương như Chúa Giêsu
Anh chị em thân mến, chỉ khi chúng ta biết quan tâm, kiên nhẫn, và tha thứ cho nhau, chúng ta mới có thể yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Một tình yêu thiếu sự quan tâm, kiên nhẫn, hay tha thứ không phải là tình yêu chân thật. Anh chị em có muốn dành cho ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, và tha nhân một tình yêu cao đẹp, trọn vẹn như tình yêu của Chúa Giêsu không? Nếu muốn, ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu quan tâm đến người khác, kiên nhẫn với họ, và tha thứ cho họ, bất kể họ là ai. Khi đó, chúng ta sẽ nhận được sự quan tâm, kiên nhẫn, và tha thứ từ những người xung quanh.
Chính Chúa Giêsu đã phán: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38, bản dịch Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ). Tôi tin chắc rằng, khi mỗi người chúng ta sống các nhân đức này, gia đình, dòng tu, giáo xứ, Giáo hội, và xã hội sẽ tràn ngập tình yêu của Chúa Giêsu. Nhờ đó, chúng ta sẽ được sống trong niềm vui, bình an, và hạnh phúc.
Mến chúc anh chị em và gia đình một cuối tuần tràn đầy tình yêu, bình an, niềm vui, và hạnh phúc trong Chúa. mục lục
Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
CHÚA THÁNH THẦN: KIẾN TRÚC SƯ CỦA SỰ HIỆP NHẤT TRONG ĐA DẠNG
Hôm nay, Chúa Nhật VI Phục Sinh, Lời Chúa mời gọi chúng ta suy niệm về vai trò của Chúa Thánh Thần như là "Kiến trúc sư của sự hiệp nhất trong đa dạng". Tiếp nối ý tưởng này, Đức Thánh Cha Leo XIV trong bài giảng vào ngày khởi đầu sứ vụ Phêrô đã tha thiết mời gọi: "Chúng ta hãy trở thành một chút men nhỏ bé của hiệp nhất, hiệp thông, tình huynh đệ trong khối bột ấy. Chúng ta muốn nói với thế giới, với sự khiêm tốn và niềm vui: hãy nhìn lên Đức Kitô! Hãy đến gần Người hơn!", qua đó, chúng ta nhận thấy khát vọng thiêng liêng căn bản nhất của con người là được thuộc về Chúa và hiệp nhất với nhau trong Người. Chính vì vậy, ngọn lửa khát vọng này thôi thúc chúng ta suy gẫm Lời Chúa hôm nay về sự hiệp nhất trong đức tin, một sự hiệp nhất được Chúa Thánh Thần vun đắp và thể hiện qua tình yêu và bình an.
Trong bài đọc từ sách Công vụ Tông Đồ, chúng ta thấy Hội Thánh sơ khai đã phải đối diện với những thách thức có nguy cơ làm tổn hại đến sự hiệp nhất. Vấn đề phép cắt bì không chỉ là một tranh luận về nghi thức, mà còn là một thử thách về lòng bao dung và sự hiểu biết lẫn nhau giữa những người tin Chúa có nguồn gốc khác biệt. Tuy nhiên, chính khát vọng thiêng liêng, ước muốn trung thành với Tin Mừng, đã dẫn dắt các Tông Đồ và các vị lãnh đạo đến một cuộc đối thoại chân thành và một quyết định dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Họ đã đặt sự hiệp nhất trong những điều cốt yếu của đức tin lên trên hết, mở ra cánh cửa cho mọi người đón nhận Chúa Kitô mà không phải mang gánh nặng của những luật lệ không cần thiết. Như vậy, đây là một minh chứng hùng hồn cho thấy khát vọng thiêng liêng giúp chúng ta vượt qua những khác biệt để tìm thấy sự hiệp nhất trong Đức Kitô.
Tiếp nối mạch suy tư này, hình ảnh Thành Thánh Giê-ru-sa-lem mới trong sách Khải Huyền hé mở cho chúng ta đích điểm của khát vọng thiêng liêng ấy: một sự hiệp nhất hoàn hảo trong vinh quang của Thiên Chúa, nơi không còn bóng tối của sự chia rẽ, mà chỉ có ánh sáng của tình yêu và bình an vĩnh cửu. Mười hai cửa thành mang tên mười hai chi tộc Israel và mười hai nền móng mang tên mười hai Tông Đồ tượng trưng cho sự hiệp nhất giữa quá khứ và hiện tại, giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa dân riêng và Hội Thánh phổ quát. Do đó, viễn cảnh này củng cố niềm hy vọng của chúng ta và mời gọi chúng ta ngay từ bây giờ hãy sống hướng đến sự hiệp nhất và bình an mà Chúa hứa ban.
Để đạt được sự hiệp nhất và bình an ấy, Lời Chúa Giê-su trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an hôm nay chỉ ra con đường, đó chính là tình yêu và sự vâng phục Lời Chúa. Tình yêu đích thực kết nối chúng ta với Chúa và với nhau. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy... Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy." Đây là tình yêu mà Chúa Giê-su đã sống và mời gọi chúng ta sống: một tình yêu lớn hơn cả tình bạn, một tình yêu dám chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã minh chứng điều đó bằng cái chết của Ngài trên thập giá vì chúng ta. Vì thế, để thực sự hiệp nhất với Chúa và với nhau, chúng ta cần mở lòng đón nhận tình yêu mà Chúa Giê-su đã trao ban, một tình yêu vô vị lợi, tha thứ và chữa lành. Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Giê-su hứa ban, chính là sức mạnh giúp chúng ta sống được tình yêu cao cả ấy, soi sáng tâm trí, khơi dậy tình yêu và ban bình an cho những ai tin. Như lời Đức Thánh Cha Leo XIV, "chúng ta hãy đến gần Chúa Kitô, đón nhận Lời Người, để trở thành một gia đình duy nhất trong Ngài." Thật vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự hiệp nhất trong sự đa dạng, giúp chúng ta trân trọng những khác biệt và xây dựng một cộng đoàn yêu thương.
Lời mời gọi "hãy nhìn lên Đức Kitô! Hãy đến gần Người hơn!" của Đức Thánh Cha Leo XIV vẫn vang vọng, thúc giục mỗi người đang sống đức tin hãy nuôi dưỡng khát vọng thiêng liêng, ước mong hiệp nhất với Chúa và anh chị em. Sự hiệp nhất này không phải là sự đồng nhất, xóa bỏ đi những nét văn hóa, truyền thống tốt đẹp, mà là sự hòa quyện của muôn màu trong bức tranh ân sủng phong phú.
Trong bối cảnh xã hội hiện tại, với những khác biệt về vùng miền, văn hóa và cả những quan điểm sống, chúng ta được mời gọi học hỏi từ Hội Thánh thuở ban đầu. Hãy tập lắng nghe và đối thoại với nhau bằng tình yêu và sự tôn trọng, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tại các cộng đoàn giáo xứ, trong mỗi gia đình, sự hiệp nhất được xây dựng bằng hành động cụ thể: sẻ chia, cảm thông và nâng đỡ lẫn nhau. Hãy vượt qua những nghi kỵ, những định kiến để nhận ra rằng tất cả đều là con một Cha trên trời, cùng nhau hướng về sự hiệp nhất trọn vẹn trong Nước Chúa.
Đặc biệt, trong cuộc sống thường nhật, mỗi tín hữu có thể trở nên chứng nhân cho sự hiệp nhất và bình an bằng cách sống theo Lời Chúa, thực hành bác ái với tha nhân, không phân biệt tôn giáo hay địa vị. Hãy trân trọng những giá trị văn hóa tốt đẹp, đồng thời chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng vào mọi khía cạnh của đời sống, góp phần kiến tạo một xã hội hòa thuận, bác ái và tiến bộ.
Ước mong mỗi người chúng ta, được khơi dậy bởi khát vọng thiêng liêng, được liên kết bằng tình yêu Chúa và được Thánh Thần dẫn lối, sẽ trở thành người xây dựng sự hiệp nhất và bình an trong thế giới hôm nay. Amen. mục lục
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Để bắt đầu bài suy niệm Chúa Nhật thứ Sáu, mùa Phục Sinh năm nay. Xin mời anh chị em nghe một câu chuyện. Câu chuyện này được một thầy già kể lại cho con cháu và các thế hệ đàn em nghe cho vui.
Truyện xảy ra vào năm 1978, một số tu viện tại Thủ Đức bị chính quyền tịch thu và đóng cửa. Các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, người thì bị giam giữ, người khác bị đuổi về nhà. Nói chung, đời sống cộng đoàn của các tu sĩ bị phá vỡ.
Trong thời gian bị giam giữ, hàng ngày họ phải học tập về chính sách mới. Vào một buổi học tập nọ, để khai mạc, bằng môt lối nói châm biếm, pha chút ngạo mạn và đắc thắng anh cán bộ phụ trách đã nói rằng: “Trong những ngày vừa qua chắc các ông đã cầu nguyện nhiều để thoát khỏi tay chúng tôi. Nhưng các ông thấy đó, làm sao có thể thoát khỏi tay chúng tôi được”.
Nghe thế, một trong các tu sĩ trong nhóm đã thản nhiên đáp trả: “Quả thật chúng tôi đã cầu nguyện nhiều, nhưng chúng tôi không cầu nguyện để thoát khỏi tay các ông, mà chúng tôi đã cầu nguyện để được ở lại trong bàn tay yêu thương của Chúa. Và chúng tôi cũng cầu nguyện cho các ông được Chúa yêu thương nữa.”
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày đầu của sứ vụ, Đức Giê-su đã mời các môn đệ hãy đến mà xem và họ đã đến, đã xem và ở lại với Chúa. Ở lại trong lòng bàn tay yêu thương của Chúa, ở trong con tim của Người là mục tiêu mà chúng ta, những tín hữu của Chúa phải theo đuổi. Và đây cũng là một trong những sứ điệp mà tác giả của Tin mừng theo Thánh Gio-an muốn nhắm đến.
Bài Tin mừng hôm nay là một phần trong diễn từ cáo biệt của Đức Giê-su. Đó chính là tâm huyết, những lời nhắn nhủ, trăn trối của Đức Giê-su dành cho các môn đệ và những ai mà Người yêu thương hết lòng. Tuy nhiên, các môn đệ làm thế nào có thể hiểu và cảm nghiệm điều Chúa nói hôm nay!
Cũng như chúng ta, các môn đệ hoang mang và lo sợ về sự ra đi của Người. Làm sao các ông có thể hiểu được điều Chúa nói rằng việc ra đi của Chúa sẽ mang lại lợi ích nhiều cho các ông hơn? Thấy vậy, Đức Giêsu đã trấn an các ông, Người ban cho các ông sự bình an để các môn đệ đừng xao xuyến cũng đừng lo âu và sợ hãi, vì Người ra đi rồi sẽ đến cùng và ở với các ông. Người còn nói điều này chỉ xẩy ra cho các ông nếu họ yêu mến Người. Vì thế, Đức Giêsu khuyên các ông hãy giữ mối tình thắm thiết với Người. Đối với Chúa, không có chuyện “xa mặt cách lòng” như chúng ta.
Thật vậy, Đức Giê-su biết rằng giờ ra đi của Người đã đến. Việc Người ra đi để đón nhận cái chết có thể được coi như một cuộc chiến thắng của quyền lực bóng tối, chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng thật ra đây là dịp để tình yêu của Thiên Chúa được bộc lộ trọn vẹn nơi sự vâng phục của Đức Giê-su. Vì thế, trước khi nói những lời trăn trối này, Đức Giê-su đã khẳng định rằng giờ Người rời bỏ thế gian là giờ mà Thiên Chúa muốn dùng để diễn tả tình yêu cao siêu của Ngài dành cho thế gian mà Ngài vẫn yêu thương họ đến cùng. Tình yêu đó được diễn tả qua việc rửa chân cho các môn đệ. Và Người truyền cho họ hãy noi gương Thầy, học theo cách thức yêu thương của Thầy đối với Chúa Cha.
Qua lối sống yêu thương, chúng ta làm cho Lời Chúa phán “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” được ứng nghiệm. Có nghĩa là, kể từ nay, yêu mến là dấu chứng, là ấn tích về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người đến và ở lại với ai yêu mến Thầy.
Lời Chúa nói thật đơn sơ. Không chau chuốt, không phức tạp, không cầu kỳ. Đó là những điều mà chúng ta có kinh nghiệm trong cuộc sống. Khi bạn đã yêu thì chỉ muốn nghe người yêu mình nói chuyện hay ít nhất là được nghe người ta nói về người mình yêu. Mức độ cảm xúc của con tim bạn tùy thuộc vào mức độ yêu thương mà chúng ta dành cho nhau.
Trong thân phận con người mà chúng ta còn hành xử được với nhau như thế, phương chi mối tình của mình với Chúa. Người hết mực yêu thương chúng ta thì việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa là việc chính đáng và phải đạo. Và hiệu quả của việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa sẽ yêu mến chúng ta.
Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa và Đức Giê-su sẽ đến và ở lại với người ấy. Đây không chỉ là lời hứa về sự hiện diện mà thôi, đó còn là cách thức mà chúng ta cần làm để cho Lời của Chúa phán hôm nay được ứng nghiệm.
Sự hiện diện ấy, người tín hữu phải có bổn phận làm lan tỏa cho những người chung quanh nhận biết bằng việc tuân giữ giới răn của Chúa Giêsu, nghĩa là ở lại trong Người, sống với Người, sống bằng chính sức sống của Chúa Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến để tiếp tục dậy bảo và nhắc lại mọi điều mà Đức Giê-su đã nói hôm nay.
Chúng ta không thể cho đi điều mình không có. Chúng ta không thể thuyết phục người khác sống yêu thương trong khi mình lại hay giận ghét. Làm thế nào chúng ta chứng tỏ sự hiện diện của Chúa là tình yêu trong khi chúng ta không biết thương nhau. Nói chung, người môn đệ của Chúa sẽ không còn là chứng nhân nếu cuộc sống của họ thiếu chứng từ. Hôm nay, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta cách làm chứng cho sự hiện diện ấy, đó là tuân giữ các giới răn của Người, tức là yêu thương nhau.
Theo tương truyền, anh chị em tín hữu tiên khởi đã làm cho những người chưa biết Chúa phải ngạc nhiên về lối sống của họ mà phải thốt lên rằng: “Kìa xem họ yêu thương và săn sóc nhau dường nào!” Đó cũng là thách đố đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay là phải có lối sống như thế nào để sự hiện diện của Chúa không chỉ giới hạn trong các nghi thức phụng vụ hay các sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện trước tiên bằng chính cuộc sống của chúng ta.
Lời đáp trả của vị tu sĩ già năm xưa: “Quả thật chúng tôi đã cầu nguyện nhiều, nhưng chúng tôi không cầu nguyện để thoát khỏi tay các ông, mà chúng tôi đã cầu nguyện để được ở lại trong bàn tay yêu thương của Chúa. Và chúng tôi cũng cầu nguyện cho các ông được Chúa yêu thương nữa.” cần được ứng dụng trong cuộc sống yêu thương của chúng ta.
Vì thế, uớc gì qua cuộc sống mỗi ngày, chúng ta luôn được Chúa yêu thương, và sẵn sàng đáp trả tình yêu của Chúa bằng cách lưu lại trong bàn tay và trái tim yêu thương của Người và quyết tâm thương yêu nhau để người ta nhận ra chúng ta là môn đệ của Người. Amen. Alleluia! mục lục
Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT
THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN VÀ BAN BÌNH AN
Cho tới đây, Đức Giê-su của Gio-an đã nói nhiều về đức tin, về ánh sáng và sự sống: “Nếu anh em đã biết Thầy, nếu anh em đã thấy Thầy, nếu anh em đã tin Thầy...” Bây giờ Người nói đến tình yêu: “Nếu anh em yêu mến Thầy... Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”, và đến bình an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.”
... Nếu Chúng Ta Tuân Giữ Giới Răn Của Đức Ki-Tô
“Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” Làm sao nghe điều đó mà không mơ mộng? Nhưng Đức Giê-su lay giũ các giấc mơ này. “Kẻ yêu mến Thầy ư? Đó là những kẻ nhận lấy các lệnh truyền của Thầy và tuân giữ.”
Chúng ta luôn bị cám dỗ nhảy phóc lên và đi ngay đến lời hứa hẹn: Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Và chúng ta thất vọng vì đã chẳng suy nghĩ đủ về các điều kiện của việc Thiên Chúa cư ngụ như thế trong chúng ta. Tuy nhiên, Đức Giê-su rất chính xác: “Kẻ yêu mến Thầy, chính là kẻ trung tín với lời Thầy.” Nghĩa là kẻ nghe lời đó cách rất chăm chú và làm điều mình được yêu cầu, dù với bất cứ giá nào đi nữa.
Điều này có vẻ rất đơn giản, nhưng thực tế chúng ta vẫn ở trong mơ mộng. Chúng ta thấy rất rõ những việc cần làm, rất muốn làm những việc này, nhưng chúng ta vẫn đứng bên bờ mà chẳng nhảy xuống. Nhiều chuyện vĩ đại nằm ở tầm tay ta, nhưng mỗi lần đều bị chắn ngang bởi một chữ “nếu” to tướng: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”
Như đã thấy, câu nói này đưa chúng ta lên tới nhiều đỉnh cao, vào trong lắm êm dịu, nhưng có bốn từ gắn chúng ta với thực tế mà chúng ta không muốn nghe: “sẽ giữ lời Thầy.”
Giữ lời, hay giữ các lệnh truyền, không phải là một loại hậu quả ít nhiều tùy tiện của nhiệt tình chúng ta đối với Đức Giê-su. Thậm chí đó cũng chẳng phải là một kết luận hợp lý: nếu yêu mến Đức Giê-su, thì tôi sẽ giữ các giới răn của Người. Từ “nếu” liên kết mạnh mẽ hơn nhiều ước muốn yêu mến Đức Giê-su của chúng ta với thái độ của chúng ta trong cuộc sống: tôi chỉ yêu mến khi vâng lời Người, bởi lẽ tình yêu đích thực, cụ thể của tôi, đó là những gì tôi làm.
Các thất bại của chúng ta bắt nguồn nơi đây: từ khước nhìn thấy rằng tình yêu không phải là một từ ngữ, một ước mơ, một rung động con tim, nhưng là một thái độ sống, một cách ăn ở. Khi suy niệm với thánh Gio-an, thái độ sống này rất rõ rệt: “Chúng ta phải mến thương anh em” với tình yêu Đức Giê-su đã dùng để thương mến, tình yêu được kín múc và sống trong mối quan hệ với Chúa Cha. Cách cư xử huynh đệ của chúng ta kéo dài những gì được sống trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mối dây mạnh mẽ liên kết ước muốn yêu Chúa rất thật của chúng ta với cái chúng ta làm cụ thể từ sáng tới chiều bằng trí tuệ và đôi tay mình, qua những cuộc gặp gỡ huynh đệ là như thế đấy. Nếu trong tất cả những điều đó không có tình yêu, thì đừng nói đến lòng mến Thiên Chúa. “Chính khi thương anh em, Đức Giê-su bảo, mà con yêu chính Thầy.”
Dưới ánh sáng ấy, bản văn hôm nay, được lấy cách rộng rãi từ câu 15 đến câu 29, cho chúng ta thấy làm sao sự khiếm diện bên ngoài của Thiên Chúa vẫn có thể là một kinh nghiệm liên tục về việc Người hiện diện... Hiện diện bộ tam, hiện diện ba ngôi, như đã được xác định từ đầu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban Thần Khí cho anh em.” Khi gia tăng các kinh nghiệm về tình bác ái huynh đệ, chúng ta cảm nếm nỗi êm dịu được sống với Đức Giê-su chính kinh nghiệm làm Con của Người, trong luồng tình yêu mầu nhiệm mà chúng ta gọi là Thần Khí.
Nhưng tất cả cái đó có thể chỉ cho một cảm giác khiếm diện cách tàn nhẫn nếu chúng ta không quyết chí tìm sự hiện diện của Chúa trong thái độ sống thường nhật của chúng ta. Mỗi lần muốn suy niệm về mối tương quan của chúng ta với Cha, Con và Thần Khí, hãy bắt đầu bằng cách ngồi lọt thỏm trong các mối tương quan huynh đệ của chính mình. Chính các mối tương quan này bảo đảm cho ta thực sự tiếp cận Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể kinh nghiệm về việc Chúa hiện diện trong kinh nghiệm của giới răn tình yêu.
Mà chỉ có một tình yêu đích thực: thường xuyên để mình bị kích thích bởi hai câu hỏi nhỏ rất ngờ nghệch, nhưng duy chúng mới có sức mạnh kéo ta khỏi những ý hướng mô hồ: Đức Ki-tô nơi anh em đợi gì ở tôi trong lúc này? Phải chăng trong lúc này tôi làm điều đó? Mà trong lúc này, anh em tôi, cộng đoàn tôi, dân nước tôi ở trong hoàn cảnh ra sao?
... Nếu Chúng Ta Chiến Thắng Xao Xuyến Và Sợ Hãi
Đi kèm sự hiện diện của Ba Ngôi trong tâm hồn kẻ yêu mến Đức Giê-su cách cụ thể chính là nỗi an bình: “Thầy để lại bình an cho anh em.”
Đối với người quen thuộc Thánh Kinh, bình an không chỉ là vắng bóng tranh chấp, tĩnh lặng tâm hồn, mà nhất là được dồi dào sức khỏe, sung mãn hạnh phúc, dư tràn ơn cứu độ. Và chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an ấy. Vì đó là phúc lộc tuyệt vời nhất: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý; và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72,7). Đức Giê-su, Đấng Chúa Cha sai đến, là Trung gian của bình an, nên Người có thể ban bình an. Không phải là thứ bình an giả tạo mà nhiều lần các ngôn sứ đã cảnh giác và Đức Giê-su đã từ chối đem xuống mặt đất, nhưng là bình an đích thực của Thiên Chúa, mà để ban cho thế gian, Đức Giê-su đã hy sinh mạng sống mình.
“Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” Tại sao lại là bình an của Thầy? Đức Giê-su xác định điều này bằng cách thêm: “Anh em đừng xao xuyến.” Các thứ bình an khác, “bình an của thế gian”, không thoát những xao xuyến. Chính Đức Giê-su đã nếm biết bao xao xuyến trước cái chết của La-da-rô, ở vườn Ghét-sê-ma-ni, trên cây thập tự. Ở đây, ngay trước cái chết của mình, Đức Giê-su nói đến bình an của mình như đến một xác tín về chiến thắng cuối cùng trên mọi xao xuyến. Chính bình an này được thánh Phao-lô đưa ra như một thách thức sau khi đã liệt kê mọi lo ầu sầu khổ của đời chúng ta: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta hoàn toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,38).
Bình an của Đức Ki-tô là một thứ bình an nội tâm đến độ không gì có thể thực sự đe dọa nó bao lâu nó gắn kết với niềm xác tín mình được Người yêu thương. Khi Đức Giê-su nói: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, điều đó có nghĩa: Thầy yêu thương anh em, không gì nghiêm trọng sẽ có thể động tới anh em nếu anh em tin vào tình yêu của Thầy. Vì cần phải tin! Hễ còn sợ, dù ít dù nhiều, là chúng ta như muốn nói với Đức Giê-su: con không thật sự tin rằng Chúa là Đấng chiến thắng, Chúa có thể làm cho chúng con thành những kẻ chiến thắng.
Khi mở đầu triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan-Phaolô 2 đã kêu mời tín hữu Công giáo: “Đừng sơ hãi!” Trong tông thư “Ngàn năm thứ ba đã khởi đầu”, Thánh Giáo hoàng cũng lặp lại y như vậy. Cố Giáo hoàng Phanxicô cũng vừa nói trong thông điệp “Dilexit nos” (Người đã yêu thương chúng ta) số 215: “Chúa Giêsu sai bạn đi làm sứ mạng trong thế giới này, và thi hành sứ mạng đó một cách tin tưởng, quảng đại, tự do và không sợ hãi. Nếu bạn vẫn bị mắc kẹt trong khu vực dễ chịu của riêng mình, bạn sẽ không bao giờ thực sự tìm thấy sự yên ổn; những nghi ngờ và sợ hãi, buồn phiền và lo lắng sẽ luôn rình rập ở chân trời.” Với Đức Ki-tô Phục Sinh, chúng ta không có gì để sợ. Thế nhưng, biết bao môn đệ của Đấng chiến thắng thế gian vẫn còn kinh hãi trước thế gian, trước bạo quyền. Bình an họ mong được không phải là thứ “bình an của Thầy” (thứ bình an họ phải chinh phục nhờ chiến đấu với thế gian tội lỗi và nhờ chấp nhận thập giá đau khổ), nhưng là sư yên thân, an nhàn, chẳng bị thế gian quấy rối, phiền nhiễu, chẳng bị thế gian cất mất các ân huệ nhỏ giọt, những ân huệ được khôn khéo ban cho để bảo đảm nơi họ thái độ cam chịu, thụ động, cầu an, ù lì. Bình an của họ là thứ bình an của “im lặng đồng lõa”, của “chịu đấm ăn xôi”, của “khôn ngoan nín tiếng”, của “lì lợm ngậm miệng”, của “bắt tay thỏa hiệp”, mặc bao ngôn sứ đang cô đơn gào thét, mặc bao nạn nhân anh em của họ đang đau xót kêu trời, mặc bao bất công tệ nạn đang tung hoành trong xã hội họ hiện cư ngụ! mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
BÌNH AN LÀ KẾT QUẢ CỦA TÌNH YÊU
Dựa trên lời của Chúa Giêsu, "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…", chúng ta suy niệm về sự cao cả, quý trọng của ơn bình an. Nhưng để có được bình an trong cuộc đời, đòi ta phải tha thứ cho nhau. Nhưng tha thứ sẽ không thực hiện được nếu không có lòng yêu mến..
Người ta kể, tại Ấn Độ, trong thời chiến giữa người Ấn giáo và người Hồi giáo, một lần nọ, một người đàn ông Ấn giáo đến gặp Mohandas Gandhi và kể rằng: Một người Hồi giáo đã giết chết con trai của ông. Trong cơn tức giận, ông đã giết chết người đàn ông Hồi giáo để trả thù cho con mình.
Người đàn ông Ấn giáo cho biết: "Từ khi chuyện xảy ra, tôi không thể nào tìm thấy bình an". Gandhi suy nghĩ một lúc rồi nói: "Nếu đúng là sự bình an mà anh muốn, thì đây là điều cần thiết, anh phải làm. Người đàn ông đã bị giết cũng có một người con trai. Anh đã làm cho nó không có cha. Anh phải là cha của nó, nó phải là con trai của anh. Anh phải nuôi dạy nó như con riêng của mình, và phải là cha như cha thật của nó, dạy dỗ nó như một người Hồi giáo dạy con mình. Nếu làm được như thế, mới mong tìm được một chút bình an".
Chúng ta không đề cập xem người đàn ông Ấn giáo có làm được điều mà Gandhi dạy, hay lỗi lầm là của ai, bởi ai đã gây ra trước, cùng một hành động giết người, nhưng người Hồi giáo hay người Ấn giáo, ai mang tội nặng hơn.
Điều chúng ta rút ra trong câu chuyện: Muốn có bình an, người ta phải tha thứ cho nhau. Biết bao cảnh huynh đệ tương tàng, biết bao nỗi oan khuất, căm thù, đổ máu… chỉ vì lòng người không thể tha thứ.
Nhân loại rất cần bình an. Mọi người đều hiểu bình an là vốn liếng quý giá trên mọi thứ của cải. Nhưng thực tế lại quá trớ trêu, vì chính nhân loại cũng lại là thủ phạm giết chết bình an một cách tàn nhẫn.
Nếu đã lỡ giết chết bình an, dù là tìm cách lấy lại bằng sự hối hận ăn năn thật lòng, may ra cũng chỉ “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Hóa ra người ta giết chết bình an thì dễ nhưng tìm lại bình an thì khó vô cùng.
Cả người Palextine lẫn người Israel, lòng khoan dung, tha thứ thiếu vắng, nên sự xung đột và bạo động diễn ra như cơm bữa. Bình an chưa có một ngày nào tại Trung đông, từ khi Palestine đòi đất của mình.
Không thể tha thứ, cho nên cả hai phía, người Nga - kẻ đem quân xâm lược, và người Ukraina - kẻ nhân danh bảo vệ quyền lợi mình, từ mấy năm qua không một ngày nào, không đối diện với bạo động, chiến tranh, bom đạn và chết choc. Cả hai phía hoàn toàn mất bình an.
Nhưng không chỉ hai quốc gia thù địch của nhau, mà còn Mỹ và châu Âu cũng bị lôi vào chiến cuộc. Nguy cơ lan rộng chiến tranh, điều mà ngay từ giây phú đầu tiên lên ngôi Giáo hoàng, Đức Lêô đã thể hiện sự lo lắng của mình.
Và trên thế giới, hết nơi này đến nơi khác, hết quốc gia này đến quốc gia khác, người ta vẫn không ngừng sợ sự bất bình an, nạn khủng bố còn đe dọa từng ngày trên đầu mình.
Hằng ngày trên thế giới vẫn còn đó biét bao cảnh tang thương vì nạn bắt cóc, nhất là bắt có làm con tin, bị giết, bị hành hạ, bị tra tấn, bị làm nhục, bị buôn bán vào nhứng nơi đầy tội các... Biết bao nhiêu cảnh tượng tàn bạo vẫn diễn ra làm cho lòng người lương thiện đau đớn, nhức buốt.
Như vậy sự chiến bại hay chiến thắng, bây giờ không chỉ dừng lại ở chỗ quốc gia này hay quốc gia kia thất trận hay thắng trận. Sự chiến bại ấy còn khủng khiếp hơn, vì đó chính là sự chiến bại của lương tâm và đạo đức con người. Bao nhiêu quyền lực, bao nhiêu hệ thống chính trị, bao nhiều tỷ người trên thế giới, lại không thể bảo vệ một số ít anh chị em của mình, dẫu họ là tù binh đi nữa. Đó là chưa kể, biết bao nhiêu người vì niềm tin vào Thượng Đế, Tin nơi Thiên Chúa, đã đành chấp nhận để người ta tước mất tự do của mình.
Đâu chỉ có thế, bình an còn trở nên hiếm hoi trong đời sống cộng đồng hoặc của từng cá nhân trong cuộc sống hằng ngày khi người với người sống bên cạnh nhau lại thiếu lòng yêu thương tha thứ.
Biết bao nhiêu cảnh trả thù, chém giết, ít là oán hận nhau, nhớ mãi lỗi lầm của nhau vẫn cứ diễn ra. Những kiểu nói "sống để bụng, chết đem theo" hay "không đội trời chung"… là những kiểu nói chất chứa sự thù oán mà không phải ít, nhưng nhiều lần chúng ta phải nghe. Tệ hơn, nếu những lời ấy lại chính là lời diễn tả tâm hồn của bạn và tôi.
Lịch sử loài người từ tạo thiên lập địa, chưa có một ngày bình an. Từ nguyên khởi, lúc mà hạnh phúc của con người còn chan chứa thứ hạnh phúc của trời cao, của thiên đàng, con người đã sát hại nhau. Lúc Cain giết chết Abel, đứa em trai của mình, chính là lúc Cain khai mạc lòng hận thù, bạo động tàn nhẫn của con người trên thế giới.
Đọc lại câu chuyện về những lần tha thứ của vua Đavit, chúng ta cảm thấy thèm khát lòng yêu thương quá. Đọc truyện vua Đavit, ta cũng cảm nhận lòng yêu thương sao mà đẹp quá đỗi. Chỉ cần một chút yêu thương, như một hạt muối bỏ vào cả một chén đầy hận thù, thế là nở ra cả một biển trời bình an. Vua Đavit đã làm được điều đó khi ông tha thứ cho người cha vợ của mình là vua Saul và đứa con trai ngỗ nghịch là Apsalon. Không phải tha một lần, nhưng Đavit đã tha rất nhiều lần, vì thế biển trời bình an xung quanh ông vốn đã rộng, lại cứ nở thêm, nở thêm…
Trở lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không nói: "Thầy chúc bình an cho các con", nhưng lại nói: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy Ban bình an của Thầy cho các con", "Thầy Ban…", "Thầy để lại…" nghĩa là gì, nếu không là những kiểu nói của quà tặng, của ân huệ. Bình an chính là ơn Chúa ban nhưng không cho trần gian.
Nhưng có thật là Chúa đã ban bình an cho trần gian hay chẳng có Chúa, chẳng có bình an nào? Bình an đã được ban, vì sao thế giới cứ mãi ngụp lặn trong bất an, trong bóng tối tăm của thù hận, trong máu và sự chết của chiến tranh? Đúng là một thử thách quá lớn cho đức tin chúng ta, vì có một khoảng cách quá xa giữa Lời Chúa với thực tế của thế giới và của bản thân từng người.
Thật ra Lời Chúa không hề mâu thuẫn. Vì chỉ trong một bản văn ngắn, có đến hai lần Chúa Giêsu đòi hỏi con người phải có lòng yêu mến. Trước khi ban bình an, Chúa nói: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi Người ấy". Cũng vậy, sau khi trao ban bình an, Chúa lại đòi: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha".
Như vậy có hai điều kiện trên hết mọi điều kiện để thế giới và để lòng người có sự bình an, đó là: "YÊU MẾN THẦY"; "GIỮ LỜI THẦY". Nhờ yêu mến và giữ lời Chúa Giêsu, ta được Chúa Cha và Chúa Con ngự trong lòng mình. Vì: "Chúng Ta sẽ đến và ở lại nơi người ấy". Mà nơi nào có Chúa Cha, Chúa Con, thì cũng có Chúa Thánh Thần. Làm sao tâm hồn ta có thể hiềm thù, nổi loạn, chiến tranh, khủng bố khi lòng mình có Thiên Chúa Ba Ngôi - nguồn Bình An tuyệt đối, nguồn Bình An có sức cứu độ và đưa ta vào thế giới vô biên - ngự vào!
Lòng yêu mến mà con người cần phải có đối với Thiên Chúa, sẽ như một dòng chảy tất yếu: yêu Thiên Chúa đưa đến yêu con người. Khi có tình yêu, con người sẽ dễ tha thứ cho anh chị em của mình. Có tình yêu, có lòng tha thứ, chắc chắn sẽ không bao giờ thiếu vắng bình an. Đó là chưa kể, khi một tâm hồn bình an có Thiên Chúa ngự trị, tâm hồn ấy sẽ tràn đầy tình yêu, bất bạo động và rất khoan dung.
Bởi vậy, nếu ngày nào thế giới và mỗi con người trong thế giới chối từ Chúa, còn xua đẩy Lời của Chúa ra khỏi lòng mình, ngày ấy nhân loại vẫn còn đó nỗi chết chóc vì chiến tranh; lòng người vẫn còn đó thù hận vì mất bình an. Cá nhân này với cá nhân kia, tập thể này với tập thể kia, đảng phái này với đảng phái kia, quốc gia này với quốc gia kia… vẫn còn đó sự đối kháng, sự trả thù vì thiếu tha thứ.
Chính vì lý do thiếu vắng tình yêu và tha thứ này, ta hiểu được vì sao ơn bình an đã được Chúa ban, vẫn cứ xa vời. Ta cũng hiểu được vì sao từ thuở tạo thiên lập địa đến nay, nhân loại không có được một ngày bình an. Thế giới mãi sống trong đe dọa, lòng người cứ mãi sống trong sợ hãi, long đong.
Bạn và tôi là Kitô hữu, tức đã thuộc về Chúa Kitô. Bởi vậy, dù cho thế giới quanh mình có thế nào đi nữa, ta vẫn phải ưu tiên sống Lời Chúa và đặt lòng yêu mến Thiên Chúa của mình lên trên hết mọi sự. Vì nếu, ngay cả người Kitô hữu mà còn không yêu mến và giữ Lời Chúa, thì làm sao có thể mong ước thế giới hết chiến tranh, loài người sống bình an, người với người tha thứ cho nhau?
Bạn và tôi cũng hãy ghi nhớ: khi bình an đã bị đánh, dẫu có tìm lại, cũng chỉ có thể “tìm lại được một chút bình an” mà thôi. Tấm gương tha thứ đến mức tuyệt vời của vua Đavit là bài học quý giá cho tất cả chúng ta. Vì nếu một Đavit, nhờ lòng tha thứ, mở ra cả một biển trời bình an, mỗi chúng ta biết tha thứ cho nhau, biển trời bình an ấy được nhân lên vô cùng.
Ngoài ra, ta còn phải cầu nguyện cho ơn bình an nữa. Trước hết, xin Chúa ban cho chính lòng mình tràn ngập bình an, để sống với anh chị em xung quanh. Sau nữa là xin Chúa tiếp tục tuôn đổ bình an cho thế giới, để nhân loại biết yêu thương và tha thứ cho nhau. Xin Chúa hãy làm cho mọi người hiểu rằng, giết chết bình an thì dễ, nhưng để có bình an, khó lắm! Vì thế, nếu đã không nỗ lực để kiến tạo bình an, thì cũng đừng tìm cách chà đạp bình an của thế giới, của lòng người, nhất là đối với những người vô tội. mục lục
Lm. JB. NGUYỄN MINH HÙNG
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.