SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ THĂNG THIÊN NĂM C

31-05-2025 491 lượt xem

Lời Chúa: Cv 1,1-11;  Dt 9,24-28; 10,19-23; Lc 24,46-53

Mục lục

NGỰ BÊN HỮU ĐỨC CHÚA CHA – + ĐTGM. Giuse Phạm Văn Thiên

PHẢI LÀ NGƯỜI SỐNG TRONG CHÂN LÝ – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

ƠN GỌI LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA KITÔ – Phêrô Phạm Văn Trung.

ĐẦU VỀ TRỜI – NIỀM HY VỌNG CHO THÂN XÁC – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA KITÔ PHỤC SINH – Lm. Đaminh Pham Tĩnh, SDD

VỀ TRỜI ĐỂ CÙNG HIỆN DIỆN – Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

TÁC NHÂN VÀ CHỨNG NHÂN – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

XIN CHO ĐƯỢC ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI – Trần Mỹ Duyệt

NGỰ BÊN HỮU ĐỨC CHÚA CHA

Để tiện việc giáo dân đi lễ, phần lớn các giáo phận cử hành lễ Thăng Thiên vào Chúa nhật hôm nay. Tuy vậy cũng còn nhiều nơi giữ truyền thống cử hành lễ Thăng Thiên vào thứ Năm và hôm nay cử hành lễ Chúa nhật thứ bảy Phục sinh. Vào thời cộng đoàn sơ khởi, một câu hỏi được đặt ra: vậy Chúa Giê-su về trời rồi thì Người ra sao? Phụng vụ mượn lời ông Tê-pha-nô, vị tử đạo đầu tiên của Ki-tô giáo để trả lời: “Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa”. Dựa trên lời này, Giáo hội Ki-tô tuyên xưng trong kinh Tin kính: “Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha”.

Vào thời đầu của kỷ nguyên Ki-tô giáo, lời tuyên xưng của ông Tê-pha-nô hàm chứa một giáo lý quan trọng: Chúa Giê-su đã chết, đã sống lại và đã lên trời. Nếu vào thời điểm đó có nhiều người nghi ngờ về thiên tính của Đức Giê-su, thậm chí tuyên truyền rằng Đức Giê-su chỉ là một con người bình thường như bao người khác. Thư thứ nhất của thánh Gio-an tông đồ đã phản ánh điều này, và tác giả kết án những người đó là “phản Ki-tô” (x. 1 Ga 2,18-29). Lời chứng của Tê-pha-nô cũng là lời tuyên xưng của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, để chứng minh Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Sau này, khoa Thần học Ki-tô giáo giải thích như sau: “Khi nói rằng Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, chúng ta muốn nói đến danh dự và vinh quang của thần tính, trong đó Con Thiên Chúa, với tư cách là Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha, đã hiện hữu từ trước muôn đời, nay sau khi trở thành xác phàm, Người ngự một cách có thể nói được là thể lý, với thân thể Người đã đảm nhận, trong chính vinh quang đó” (Sách GLHTCG, số 663).

Khi tuyên xưng Đức Giê-su “ngự bên hữu Đức Chúa Cha”, Ki-tô giáo xác tín vào sự sống lại của thân xác loài người và hạnh phúc thiên đàng Chúa dành cho người công chính. Nếu Đức Giê-su đã lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha, thì những ai tin vào Người, và chuyên tâm thực thi những điều Người dạy, cũng sẽ được vinh quang như Người. Đức Giê-su đã chiến thắng tội lỗi và tử thần, những ai cùng chiến đấu với Người sẽ chiến thắng như vậy.

Nếu Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang hưởng vinh quang thiên quốc, thì Người cũng cầu nguyện cho chúng ta, để rồi chúng ta cũng được vinh quang với Người. “Con ở trong họ và Cha ở trong con”. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su diễn tả sự thấm nhậm hòa quyện giữa tín hữu với Chúa Cha và với Chúa Con. Hình ảnh “ở trong” này được Chúa Giê-su nhắc đến nhiều lần, như sự hiệp thông trọn vẹn và hoàn hảo. Chúa biết trước các môn đệ (và chúng ta hôm nay) sẽ phải trải qua nhiều chông gai thử thách, nên Người xin Chúa Cha gìn giữ và thêm sức cho chúng ta.

Cuộc tử đạo của Tê-pha-nô cũng chứng minh một nét đẹp của Ki-tô giáo, đó là tha thứ. Trên thập giá, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giê-su đã xin Cha tha thứ cho những kẻ làm hại và giết chết Người. Nay Tê-pha-nô cũng làm như Thầy mình, lặp lại cũng một lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trước khi tắt thở.

Cùng với thánh Tê-pha-nô, Phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang thiên quốc, nơi đó có Chúa Giê-su đang hưởng phúc vinh quang. Không chỉ có Chúa Giê-su, nhưng còn có “những ai đã giặt sạch áo mình”, tức là những chấp nhận để được thanh tẩy nhờ máu cứu độ của Chúa Giê-su. Tác giả sách Khải huyền cũng khích lệ chúng ta: Chắc chắn Đức Giê-su sẽ trở lại, đem theo phần thưởng để trả cho mỗi người tùy theo việc họ đã làm trên dương thế. Mỗi chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về hành động và ngôn từ của mình, vì sẽ có ngày vị Thẩm phán tối cao sẽ ngự đến để xét xử muôn loài.

Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến! Đời sống Ki-tô hữu là sự chờ đợi liên lỉ, với tâm tình cầu nguyện và phó thác cậy trông. Đấng Phục sinh đang hiện diện thiêng liêng giữa chúng ta. Người sẽ đến trong vinh quang vào ngày tận thế. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy, và Người sẽ thực hiện lời hứa ấy. mục lục

+ ĐTGM. Giuse Phạm Văn Thiên

 

PHẢI LÀ NGƯỜI SỐNG TRONG CHÂN LÝ

Ngày 6.5.1967, dịp lễ Thăng Thiên, Đức Thánh Cha Phaolô VI công bố Ngày Truyền thông của Hội Thánh Công giáo. Đức Phaolô VI cũng ấn định: Lễ Thăng Thiên hàng năm là Ngày Quốc tế Truyền thông. Tính đến nay, Hội Thánh đã trải qua 57 Ngày Quốc tế Truyền thông. Và lễ Thăng Thiên 2025 là Ngày Truyền thông lần thứ 58.

Vậy có liên quan nào giữa lễ Chúa về trời với sứ vụ truyền thông? Chúa về trời nhưng Chúa vẫn để lại mệnh lệnh sai đi: 

- "Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất" (Bài đọc I).

- "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống" (bài Tin Mừng).

Rõ ràng có một liên hệ thật lớn. Đó là dù Chúa Giêsu lên trời nhưng sứ mạng của Chúa nơi Hội Thánh không kết thúc. Hội Thánh phải tiếp tục nhân danh Chúa mà truyền thông Lời Chúa cho muôn dân. Ngày Quốc tế Truyền thông, trước hết nhấn mạnh và thúc đẩy việc truyền thông Lời Chúa.

Nói cách khác, Chúa Giêsu kết thúc sứ mạng nơi trần thế, nhưng mở ra cho tất cả chúng ta sứ mạng thánh hóa loài người tại chính trần thế này. Đó là sứ mạng rao giảng Tin Mừng, loan báo ơn Chúa, nói về Chúa, về sự cứu độ của Chúa cho muôn người.

Chúng ta truyền thông Lời Chúa là đem lời chân lý đến cùng anh chị em. Người truyền thông Lời Chúa phải là người ý thức mình đã lãnh hội lời chân lý, bây giờ phải nói lời chân lý và bằng mọi giá, phải đem lời chân lý đó cho mọi người. Lời chân lý đòi người truyền thông phải là người sống chết cho chân lý.

Vì thế, khi làm truyền thông mà lại đem sự dối trá vào truyền thông, gieo rắc mầm giống của sự chết trong truyền thông, chỉ có thể là thứ truyền thông mang khuôn mặt ma quỷ. Họ có thể là thế gian, là đại diện cho sự dữ, cho những bóng tối của thế gian.

Hãy nhớ, truyền thông "bẩn" chỉ là thứ truyền thông phản bội loài người. Đó chính là tội ác, là sự chống lại sự thật mà Thiên Chúa muốn trao gởi. 

Đừng chỉ nghĩ, những người làm truyền thông là những nhà báo. Không. Ngày nay với các phương tiện truyền thông hiện đại trong tay, tất cả chúng ta đều có thể làm truyền thông. Chỉ cần bấm chiếc điện thoại để like, share một hình ảnh, một bài viết..., ta đã góp phần mình cho truyền thông, góp phần làm cho bài viết ấy, hình ảnh ấy, bản tin ấy... lan rộng.

Nếu một người nào đem lên mạng internet, hay nói cụ thể, đem lên các nền tảng tiktok, facebook, youtube... những clip, những bài viết, những hình ảnh... chửi bới người khác, công kích người khác, đả phá người khác..., hay gọi là ném đá nhau trên mạng truyền thông... mà ta lại bấm vào nút like, lại chép đường link để chia sẻ, là ta đang cố tình phổ biến những thứ sai trái trong cuộc đời, chống lại sự sống của nhau không? 

Bổn phận của người làm truyền thông quan trọng vô cùng. Một bản tin, một hình ảnh hay một bài viết, một video clip... mà mình xem, mình đọc, mình nghe..., đừng tưởng là nó vô hại. Tất cả những gì chúng ta tham dự vào, sẽ trở thành ký ức, trờ thành phản ứng, thậm chí trở thành nếm nghĩ, nếp sống của bản thân. Vì thế, khi tham dự vào truyền thông, là tham dự vào vấn đề liên can đến chính sự sống. 

Lương tâm của người Công giáo phải là lương tâm của người sống ơn gọi Kitô hữu, lương tâm của người xưng mình là con Chúa, lương tâm của người đã hấp thụ giáo lý Chúa Kitô..., chúng ta không được phép tham gia vào thứ truyền thông hủy diệt mà phải luôn tỉnh thức để trở nên người truyền thông sự sống.

Theo Chúa, thờ phượng Chúa, chúng ta chỉ có một con đường duy nhất, đó là con đường thánh Phaolô đã chọn để làm điểm tựa cho đời tông đồ: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5, 14); “Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14,8). 

Hãy để cho lương tâm của ơn gọi Kitô hữu điều khiển bên trong nội tâm của người đang làm truyền thông. Hãy là tông đồ nhiệt thành của Chúa Kitô mọi nơi mọi lúc. Hãy thực thi sứ mạng loan Tin Mừng của Chúa cho mọi nơi, mọi người, dù thuận tiện hay không thuận tiện. Hãy là sứ giả của Lời chân lý mà Chúa Kitô luôn cần đến để chính Chúa Kitô có thể đến với muôn người, đến với mọi ngã đường thế giới. mục lục

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

ƠN GỌI LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA KITÔ

Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu lên trời. Đây là khởi đầu cho một cách hiện diện mới của Ngài, luôn ở bên những ai theo Ngài, không lệ thuộc không gian - thời gian. Trước khi Ngài ra đi, Ngài đã hứa rằng Ngài sẽ sai Chúa Thánh Thần đến ban sức mạnh cho họ: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49). Các môn đệ không bị bỏ lại trong nỗi buồn, nhưng họ tràn đầy niềm vui và mong đợi Chúa Thánh Thần đến: “Các ông bái lạy Ngài, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 54). 

1. Khổ hình của Chúa Kitô là cánh cửa dẫn đến sự sống mới

Chúa Giêsu đã tiên báo về con đường mà Ngài phải đi, một con đường không phải được trải hoa hồng mà thấm đẫm đau khổ và hy sinh. Ngài khẳng định: “Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại” (Lc 24,46). Lời tiên tri này không chỉ là một dự báo, mà còn là một mặc khải sâu sắc về ý nghĩa của sự đau khổ, sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu. Điều đó cho thấy rằng sự chết không phải là dấu chấm hết, mà là cánh cửa dẫn đến một sự sống mới đời đời, vượt quá những giới hạn trần gian: “Sau đó, Ngài dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Ngài rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24: 50-51). Việc Chúa Giêsu lên trời nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô không bị thực tại trần thế nào giới hạn được, bởi vì không gì có thể cản trở sự tốt lành của Chúa Kitô, thể hiện qua quyền năng tha thứ, chữa lành và làm cho mỗi người tin Ngài trở lại chính là họ cách trọn vẹn. Trong khi đó, nếu chúng ta đặt niềm tin của mình vào bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì khác, chúng ta sẽ thất vọng một cách bi thảm.

Edith Stein (1891-1942), sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Đức, sớm bộc lộ trí tuệ vượt trội và niềm đam mê tri thức, đặc biệt là triết học hiện tượng – phenomenology, dưới sự hướng dẫn của triết gia Edmund Husserl. Cô nhanh chóng trở thành một nhà tư tưởng lỗi lạc.

Thế chiến thứ nhất bùng nổ, Edith tình nguyện làm y tá, và việc chứng kiến những đau khổ đã khiến cô suy tư sâu sắc về ý nghĩa cuộc đời. Bước ngoặt lớn đến vào năm 1921 khi cô đọc truyện của Thánh Têrêsa Avila, tìm thấy “chân lý” và quyết định trở thành người Công giáo vào năm 1922, bất chấp sự phản đối từ gia đình.

Khi Đức Quốc xã lên nắm quyền vào năm 1933, Edith, vì có nguồn gốc Do Thái, nên không thể tiếp tục giảng dạy. Cô quyết định thực hiện nguyện vọng: gia nhập tu viện Cát Minh ở Cologne, lấy tên là Têrêsa Bênêđícta Thánh Giá. Cuộc sống tu viện là sự chiêm niệm sâu sắc, nơi cô tiếp tục viết sách, kết hợp triết học và thần học.

Để bảo vệ vị nữ tu khỏi mối đe dọa từ Đức Quốc xã, Edith được chuyển đến tu viện ở Hà Lan vào năm 1938. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 1942, cô và em gái Rosa bị Gestapo bắt giữ. Cả hai chị em bị đưa đến trại tập trung Auschwitz và chết trong phòng hơi ngạt vào ngày 9 tháng 8 năm 1942.

Thánh Augustinô, một trong những nhà thần học vĩ đại của Giáo hội, đã đào sâu hơn ý nghĩa của biến cố Chúa Giêsu chịu khổ nạn, chịu đóng đinh và chịu chết khi ngài nhấn mạnh: “Thập giá của Chúa Kitô là trường học của tình yêu, nơi chúng ta học cách hy sinh và trao ban chính mình” (De Trinitate, XIII, 10). Thập giá không chỉ là biểu tượng của sự đau khổ tột cùng, mà còn là đỉnh cao của tình yêu thương vô điều kiện. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã hiến dâng chính mình vì nhân loại, không giữ lại bất cứ điều gì. Từ Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta học được bài học quý giá về lòng quảng đại, sự tha thứ và khả năng yêu thương vượt lên trên nỗi đau. Đó là nơi tình yêu được thể hiện một cách trọn vẹn nhất, mời gọi mỗi người chúng ta noi theo và sống đời mình, trong hoàn cảnh cụ thể riêng mình, với tình yêu thương hy sinh. 

Câu chuyện của Edith Stein minh chứng cho sự hy sinh này. Vào năm 1998, Edith Stein được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong là thánh tử đạo và được tuyên bố là đồng bổn mạng của châu Âu. Cuộc đời Edith là minh chứng rõ ràng cho sức mạnh của đức tin, trí tuệ và tình yêu thương, vượt qua mọi rào cản để tìm kiếm chân lý và dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, đón nhận mọi Thánh giá, bất kể tính mạng. 

2. Sứ mạng rao giảng sám hối nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần

Sứ mạng trọng đại mà Chúa Giêsu trao phó cho các môn đệ, và qua đó cho toàn thể Giáo hội, chính là việc rao giảng sự sám hối và ơn tha tội. Ngài ủy thác rõ ràng: “Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24: 47). Lời dạy này không chỉ là một mệnh lệnh, mà còn là một lời mời gọi đầy yêu thương từ Thiên Chúa, thúc giục con người nhìn lại những sai lầm, quay về với Ngài để lãnh nhận lòng thương xót vô biên. Đây là một sứ mạng đòi hỏi quyền năng của Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49). Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ hướng dẫn các môn đệ và ban sức mạnh để lời rao giảng của họ chạm đến trái tim con người, biến đổi cuộc đời của nhiều người, giúp họ cảm nhận được tình yêu cứu dộ của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô.

Sám hối không phải là sự hối tiếc đơn thuần, mà là một sự hoán cải nội tâm sâu sắc, một quyết định chân thành từ bỏ tội lỗi và hướng về ánh sáng của Thiên Chúa. Thánh Augustinô đã từng nói: “Chính Chúa thúc giục con người tìm sự vui thỏa trong việc ngợi khen Ngài, vì Chúa đã tạo dựng chúng con cho Chúa, nên tâm hồn chúng con áy náy không ngừng cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa” (Confessions 1,I,1). Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng thường xuyên mời gọi mỗi người chúng ta quyết tâm hoán cải trở về với lòng thương xót của Cha: “Lòng thương xót luôn hiện diện, luôn sẵn sàng, nhưng nếu bạn không nhận mình là kẻ có tội, làm sao bạn có thể mở lòng đón nhận lòng thương xót ấy?” Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng thương xót Chúa: “Lòng thương xót chính là căn tính của Thiên Chúa, là nhịp đập của trái tim Ngài, là nền tảng cho đời sống Giáo hội và là con đường dẫn chúng ta đến với Chúa” (Bài giảng Chúa Nhật đầu tiên trong Sứ Vụ Giáo Hoàng). 

3. Lời mời gọi sống niềm hy vọng

Cuộc sống luôn tiềm ẩn những thử thách và khó khăn, đôi khi khiến chúng ta chùn bước. Thế nhưng, Lời Chúa không ngừng mời gọi chúng ta: “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng” (Hípri 10,23). Niềm hy vọng này không phải là sự lạc quan hời hợt, mà là một đức tin kiên vững vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, Đấng luôn giữ lời hứa. Dù trong bão tố cuộc đời hay đối diện với sự mất mát, việc giữ vững niềm hy vọng giúp chúng ta tìm thấy sức mạnh nội tâm, vượt qua tuyệt vọng và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn, nơi ơn lành của Chúa luôn hiện diện.

Tại một giáo xứ nhỏ thuộc Giáo phận Phú Cường, chị Maria, 38 tuổi, sống cùng chồng, anh Phêrô, một thợ xây, và ba con nhỏ. Năm 2023, chị được chẩn đoán mắc ung thư máu, một cú sốc lớn khi gia đình vốn đã khó khăn vì ảnh hưởng kinh tế hậu đại dịch COVID-19. Thu nhập ít ỏi của anh Phêrô không đủ chi trả hóa trị, khiến cả nhà rơi vào cảnh túng quẫn. Dẫu vậy, chị Maria luôn nhớ đến và nhắc nhở gia đình câu Lời Chúa trong Thư Do Thái: “Chúng ta hãy tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Hípri 10,23).

Dù đau đớn vì hóa trị, chị Maria không bỏ Thánh lễ, thường xuyên cầu nguyện cùng cộng đoàn. Chị dạy các con đọc kinh Mân Côi mỗi tối, truyền cho các con bài học về niềm tin và hy vọng. Cộng đoàn giáo xứ trở thành chỗ dựa vững chắc: hội Caritas quyên góp hỗ trợ tài chính, các chị em trong hội Legio Mariae thay phiên chăm sóc, và cha xứ thường xuyên thăm viếng, ban Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Anh Phêrô, dù kiệt quệ tài chánh và sức lực, vẫn tham gia ca đoàn phục vụ cộng đoàn.

Năm 2024, bệnh tình chị Maria thuyên giảm đáng kinh ngạc, được bác sĩ xem là “phép màu y học”. Chị chia sẻ: “Đức tin giúp tôi vượt qua bóng tối. Chúa không hứa đời sống dễ dàng, nhưng Ngài luôn trung tín.” Câu chuyện của chị lan tỏa, khích lệ giáo dân sống kiên vững giữa khó khăn. Gia đình chị trở thành chứng nhân sống động cho niềm hy vọng Công giáo (Nguồn: dựa trên bài viết “Chứng nhân niềm hy vọng” trên tonggiaophansaigon.com, ngày 15 tháng 8 năm 2024).

  • Đức Giêsu truyền dạy: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48). 

  • Thánh Grêgôriô Cả nói: “Mỗi người chúng ta được mời gọi trở thành sứ giả của Tin Mừng, không chỉ bằng lời nói, mà bằng chính đời sống của mình” (Homiliae in Evangelia, số 29). 

  • Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!” (Thánh Lễ bắt đầu sứ vụ Phêrô, Chúa Nhật 22/10/1978).

Mỗi người chúng ta được mời gọi trở thành ánh sáng của Tin Mừng, thành chứng nhân của Chúa Kitô, trong thế giới hôm nay, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. mục lục

Phêrô Phạm Văn Trung.

ĐẦU VỀ TRỜI – NIỀM HY VỌNG CHO THÂN XÁC

"Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và các mộn đệ. "Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó " Người lên Trời " (x. Cvtđ 1, 1- 11). Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời trên.

Đầu về Trời

Chúa Giêsu, vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, sống lại, vinh hiển về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta.

Theo lời thánh Lêo Cả, Chúa Giêsu Kitô, Vị Thủ Lãnh của chúng ta vinh hiển bước vào thiên đàng ngự bên hữu Đức Chúa và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời). “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Niềm hy vọng cho thân xác

Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Leo Cả : “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).

"Thầy đi dọn chỗ cho anh em…Thầy sẽ trở lại, và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó" (Ga 14,3).  Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Đó cũng là niềm hy vọng của chúng ta (thân xác) chi thể của Người. Chứng kiến cảnh Chúa Giêsu lên Trời, các môn đệ lòng ngập niềm vui (x. Lc 24, 50-53) mang đến cho chúng một sứ điệp lữ hành trong hy vọng.

Hình ảnh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta dưới dạng “Con Chiên đứng (thẳng) như đã bị tế sát” (Kh 5,5) thực sự trở nên niềm hy vọng tuyệt đối cho chúng ta. Dầu “bị tế sát”, nhưng vẫn “đứng thẳng”. Nên dầu gian khổ, hay gặp bao thử thách, bị giằng co, xâu xé và thậm chí bị bách hại, con cái Chúa vẫn cảm thấy ứa trào sức sống và niềm vui của Đấng Phục Sinh để thốt lên trong hy vọng: “Marana Tha! Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” (Kh 22,20).

Hành hương trong hy vọng

Chúa Giêsu Kiô niềm hy vọng của chúng ta”: thực vậy, Người là đích điểm cuộc hành hương của chúng ta, và chính Người là đường để chúng ta bước đi.

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta, người hành hương hy vọng đang tiến về nhà Cha.

Là những người sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi không ngừng tin vào Chúa Kitô và sống khác với những người chưa biết đến Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở cùng chúng ta và Người đang dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời. Người chỉ cho chúng ta đường lên Trời của Người, đường Giêsu. Chúng ta phải tránh những cám dỗ, sợ hãi, hoảng loạn và thất vọng. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”(1 Tx 4,13). Ở đây chúng ta cũng thấy một dấu hiệu riêng biệt của các Kitô hữu là họ có tương lai. Đức cố Giáo hoàng Bênêdictô XVI viết: “Không phải là họ biết chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết một cách chung chung rằng cuộc sống của họ sẽ KHÔNG KẾT THÚC trong sự trống rỗng. Chỉ khi tương lai chắc chắn là một thực tế tích cực thì mới có thể sống tốt trong hiện tại” (x. BENEDICTO XVI, Spe Salvi, số 2).

Chính khi tin vào Chúa Kitô mà chúng ta sống an bình và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vì sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Ngay cả khi cái chết đến với chúng ta, chúng ta vẫn thanh thản trong niềm hy vọng cuối cùng là được lên Trời sống đời đời với Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc sống người tín hữu chúng ta.

Xin Chúa khơi dậy nơi chúng ta lòng ái mộ những sự trên Trời. Trên hết, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, Đấng, qua Mẹ Giáo Hội, đã sinh chúng ta vào sự sống đời đời, sự sống của Chúa Giê-su, niềm hy vọng của chúng ta. Cậy trông vào Mẹ Maria, Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, phù hộ cho chúng ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng.

Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời, như thế chúng ta hy vọng sẽ được về Trời với Chúa. Amen. mục lục

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA KITÔ PHỤC SINH

Sứ mạng làm chứng nhân

Sau khi sống lại từ cõi chết và trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ, trong đó có mỗi người chúng ta, một sứ mạng trọng đại: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại” (Lc 24,46-48). Người mời gọi chúng ta nhân danh Người rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Đây là một trách nhiệm cao cả, đòi hỏi lòng trung thành và sự dấn thân.

Gương chứng nhân thời Giáo hội sơ khai

Tuân theo mệnh lệnh của Chúa Giêsu, các Tông đồ, môn đệ, và các Ki-tô hữu tiên khởi đã nỗ lực làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh. Sách Công vụ Tông đồ ghi lại rằng, trong nạn đói thời hoàng đế Claudio, các môn đệ đã quyên góp, mỗi người tùy khả năng, để giúp đỡ anh em tại Giuđê, gửi quà cứu trợ qua tay ông Barnaba và Saolô (Cv 11,28-30). Họ làm chứng cho Chúa qua các việc bác ái, giúp đỡ người nghèo khổ, túng thiếu, và những ai lâm vào cảnh bất hạnh.

Họ cũng làm chứng qua lòng tha thứ. Thánh STêphanô, khi bị dân Do Thái ném đá, đã quỳ xuống kêu lớn: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), rồi an nghỉ trong Chúa. Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Côrintô, chia sẻ rằng ngài vui vẻ chấp nhận hy sinh và bách hại vì danh Chúa Kitô: “Năm lần tôi bị người Do Thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi” (2 Cr 11,24-25). Những gian khó ấy là chứng tá sống động cho đức tin vào Chúa Phục Sinh.

Làm chứng nhân hôm nay

Ngày nay, tại Mỹ, chúng ta may mắn không phải đối mặt với bách hại hay cấm đoán khi tuyên xưng đức tin. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta được phép lơ là sứ mạng làm chứng nhân mà Chúa Giêsu đã trao phó. Mỗi Ki-tô hữu vẫn được mời gọi trở thành chứng nhân sống động cho Chúa Kitô Phục Sinh qua nhiều cách khác nhau. Tôi xin đề xuất hai phương cách hiệu quả để thực hiện sứ mạng này.

Thứ nhất, hãy quảng đại hỗ trợ Giáo hội và các dòng tu trong việc xây dựng và duy trì các cơ sở bác ái như bệnh viện, trường học, trại mồ côi, trung tâm dạy nghề, và các cơ quan từ thiện. Nhờ những công trình này, các linh mục, tu sĩ, và nhà truyền giáo có phương tiện mang Tin Mừng đến với tha nhân. Khi chúng ta góp phần xây dựng trường học để giáo dục, bệnh viện để chữa trị, hay trung tâm bác ái để giúp người nghèo, chúng ta đang gián tiếp loan báo Chúa Kitô Phục Sinh.

Thứ hai, hãy sống đời sống đức tin với ý hướng ngay lành, ngay cả khi đối mặt với sự hiểu lầm hay chỉ trích. Những việc thiện nguyện như chở người đi lễ, giúp đỡ người bệnh, tham gia ca đoàn, dạy giáo lý, hay bảo trì nhà thờ, nếu được thực hiện vì yêu mến Chúa và Giáo hội, đều là cách làm chứng. Nếu vì những việc này mà bạn bị đàm tiếu, vu khống, hay sỉ vả, hãy vui lên, vì bạn đang được hưởng “mối phúc thứ tám”: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5,11). Những thử thách ấy là cơ hội để bạn làm chứng cho Chúa qua sự kiên nhẫn và lòng tha thứ.

Sống làm chứng nhân sống động

Kính thưa cộng đoàn, làm chứng nhân cho Chúa Kitô Phục Sinh qua việc chia sẻ, bác ái, và chấp nhận thử thách không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, với lòng tin tưởng phó thác và sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta có thể trở thành những chứng nhân sống động, mang Tin Mừng đến mọi nơi, mọi lúc. Nhờ lời chuyển cầu của thánh cả Giuse và Mẹ Maria, xin Chúa ban ơn để chúng ta luôn trung thành với sứ mạng này. Cầu chúc cộng đoàn và những người thân yêu một tuần mới bình an, vui tươi, và tràn đầy ơn Chúa. mục lục

Lm. Đaminh Pham Tĩnh, SDD

VỀ TRỜI ĐỂ CÙNG HIỆN DIỆN

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Lễ Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc một và trình thuật Tin Mừng tuy có một chút khác biệt, nhưng nội dung chính yếu vẫn nói về việc Đức Giê-su được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Như vậy câu hỏi đầu tiên chúng ta cần san sẻ cho nhau là trời ở đâu?

Trời là nơi Chúa ngự. Ngự trị không nhắm đến nơi chốn cho bằng mô tả sự hiện diện của Chúa. Sự hiện diện này sẽ không còn tuỳ thuộc vào một khoảng không gian nào đó hay một mốc thời gian nào của lịch sử; nhưng là một sự hiện diện không bị giới hạn bởi không gian và không lệ thuộc vào thời gian. Thiên Chúa hiện diện từ trước và cho đến muôn đời, vô thủy vô chung.

Như vậy ở đâu có Chúa là ở đó có trời. Và như lời Chúa đã phán thì ở đâu có hai hay ba người họp lại vì danh Chúa thì Chúa hiện diện giữa họ. Ý nghĩa của câu này có thể giải thích là ở đâu có sự hiệp nhất, thông cảm, yêu thương thì có Chúa ở đó; nói khác đi tại nơi đâu mà con người cùng chia sẻ một đức tin, cùng san sẻ và trao ban một lòng mến thì tại nơi đó có sự hiện diện của Chúa.

Như vậy, trời hay thiên đàng không ám chỉ đến địa danh hay nơi chốn nào đó cho bằng đó là một cách nói để diễn tả nơi Chúa ngự. Nói khác đi, khi nói đến việc Chúa lên trời là chúng ta nói đến việc Chúa Giê-su ngự bên hữu Thiên Chúa.

Có phải cho đến hôm nay Chúa mới đuợc đưa lên trời hay không?

Thật ra, Đức Giê-su đã về nhà Cha, tiếp nhận vinh quang như đã có từ Thiên Chúa ngay khi Người trút hơi thở và trao ban Thần Khí cho những ai đứng bên Thập Giá. Việc Chúa Giê-su được cất nhắc về trời hôm nay không phải là việc ra đi để rồi không hiện diện nữa; nhưng đây chính là một sự hiện diện mới mà chúng ta và các môn đệ cần nhận ra bằng con mắt đức tin và thể hiện bằng việc làm để minh chứng điều mà chúng ta và các môn đệ đã tin.

Vì thế, không có chuyện vắng mặt. Đức Giêsu, Đấng đã chịu thương tích và bị giết vào dịp lễ Vượt Qua vẫn hiện diện và không hề bỏ rơi các môn đệ; Người đã sống lại và tiếp tục sống cho họ và ở với họ như những gì mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một hôm nay, đó là “sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa.”

Cách thức hiện diện tuy khác, nhưng Người không hề bỏ rơi họ. Trong khi thi hành sứ vụ, Người đã không thể ở với mọi người tại mọi nơi khác nhau. Nay qua sự chết trong vâng phục mà Người đã được tôn vinh và hiện diện ở mọi nơi, mọi chốn và ở với mọi người trong mọi cảnh huống của đời họ.

Chúng ta mừng sự thay đổi, hân hoan đón nhận cách thức hiện diện mới của Chúa. Tuy, chúng ta không còn đuợc tiếp cận với con người bằng xương bằng thịt của Chúa nữa. Nhưng với Thân Thể Mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Giáo Hội, chúng ta đuợc liên kết với Người như Lời Người đã phán: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ.”

Mặc dầu các dấu chỉ biểu lộ uy quyền của Thiên Chúa có thể thay đổi so với các việc làm của các tín hữu thuộc các công đoàn sơ khai; nhưng nguồn gốc và sức mạnh vẫn xuất phát từ Chúa. Người vẫn hoạt động thông qua những kẻ đi theo Người. Người về trời ngự bên hữu Thiên Chúa không phải để đuợc tôn vinh mà thôi, nhưng còn tiếp tục làm việc nơi các môn đệ qua quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa, đó chính là sức mạnh của Thánh Linh như Chúa đã hứa “các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong tất cả xứ Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, và cho đến tận cùng trái đất”.

Với sức mạnh của Chúa Thánh Linh, các Tông Đồ và nhóm môn đệ mọi thời đã hoàn tất sứ mạng của họ. Còn chúng ta hôm nay thì sao?

Sống trong một thế giới đầy tranh chấp và bạo lực, chúng ta đuợc mời gọi trở nên sứ giả của hoà bình.

Sống trong một tập thể mà người ta tìm cách loại bỏ nhau vì ghen ghét, đố kỵ và thù hằn thì chúng ta lại đuợc mời gọi sống yêu thương, sống hiệp hành trong tình liên đới với nhau.

Sống trong môi trường mà con người chỉ biết tham lam và tranh dành địa vị thì chúng ta lại được mời gọi sống bác ái và khiêm nhường trong việc phục vụ.

Tất cả đều là dấu chỉ nói lên lời mời gọi của Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng tiếp tục hiện diện và hoạt động trong cộng đoàn của các kẻ tin.

Vì thế, câu hỏi mà chúng ta phải đối diện hôm nay là sống thế nào trong vai trò chứng nhân về sự hiện diện của Chúa? Đó cũng là thử thách mà Tin mừng đề ra cho các tín hữu tại Ga-li-lê-a khi xưa và cho chúng ta hôm nay “Hỡi những người Ga-li-lê-a, sao còn đứng đó nhìn trời.” Có nghĩa là tại sao chúng ta vẫn còn ngồi đó mà tiếc nuối quá khứ! Sao cứ khư khư ôm lấy vinh quang mà không dám trở về với cuộc sống hiện tại để chu toàn phận sự đã được trao phó?

Và khi thi hành nhiệm vụ đã được Chúa trao phó, chúng ta không làm một mình vì chúng ta tin rằng Chúa đang đồng hành với chúng ta.

Chúng ta vẫn nương tựa vào Chúa. Chúng ta vẫn gắn bó và nối kết mật thiết với Người. Tuy nhiên, chúng ta không ngồi đó chờ Người làm thay các việc mà chúng ta cần làm.

Chúng ta sẽ không yêu cầu Chúa đến làm phép lạ biến chúng ta thành các ngôi sao, thay vào đó, trong niềm tin, chúng ta tin chắc Người đang đồng hành với chúng ta, soi sáng và mở mắt để chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa nơi Lời Chúa, trong các việc làm của Hội Thánh và những sự kiện đang xảy ra quanh chúng ta. Thiên Chúa đã không hề bỏ rơi chúng ta nhưng hiện diện trong những gì đang diễn ra trong cuộc sống của chúng ta ngay bây giờ và mãi mãi.

Chúa đã đi đâu là việc của Chúa! Việc của chúng ta phải làm là thực hiện lịnh truyền mà Chúa phán trước khi được cất nhắc lên trời, đó là: “anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” Đây là niềm vinh dự. Vai trò chứng nhân cho đến tận cùng trái đất được trao cho Hội Thánh, và nhờ việc làm của Hội Thánh mọi thời mà thế gian nhận biết chúng ta là môn đệ của Người.

Sau cùng, Lễ Chúa Lên trời không phải là lễ tưởng niệm cuộc ra đi hay ly biệt của Chúa. Nhưng, đây là lễ của niềm hy vọng. Chúa Giêsu không còn hiện diện theo cách cũ, nhưng Ngài vẫn ở giữa chúng ta bằng một sự hiện diện mới: vô hình nhưng đầy sức mạnh và quyền năng, âm thầm nhưng đầy tác động của yêu thương.

Phần chúng ta, hãy mở lòng ra để nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong các buổi cử hành phụng vụ mà cao điểm là Thánh lễ, trong Lời Chúa, nơi tha nhân và trong chính cuộc đời mình. Và khi cảm nghiệm được việc Chúa đang đồng hành, chúng ta sẽ không còn cô đơn hay lo sợ, vì biết rằng Chúa đang ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Amen! mục lục

Lm. Yuse Mai Văn Thịnh, DCCT

TÁC NHÂN VÀ CHỨNG NHÂN

Hành trình hướng tới Thăng Thiên

Biến cố Thăng Thiên là chóp đỉnh của Tin Mừng Luca, đánh dấu sự hoàn tất hành trình trần thế của Đức Giêsu và khai mở sứ mạng của Giáo hội. Mọi con đường Đức Giêsu và các môn đệ đi qua tại Palestina đều hướng tới đích điểm này, trên núi Cây Dầu, ngọn núi cao nhất ở Giêrusalem. Thánh Luca ghi rõ: “Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết lên Giêrusalem” (Lc 9,51). Ngay từ biến cố Hiển Dung, Luca đã xác định nội dung cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu, Môsê và Êlia là “cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31). Cuộc xuất hành này chính là hành trình qua khổ nạn, phục sinh, và Thăng Thiên, đưa Đức Kitô vào vinh quang của Chúa Cha trong Giêrusalem thiên quốc, đồng thời trao sứ mạng làm tác nhân và chứng nhân Tin Mừng cho các môn đệ.

Các tác nhân của Thăng Thiên

Thăng Thiên đánh dấu sự kết thúc khải hoàn của cuộc đời trần thế của Đức Giêsu, đồng thời là khởi đầu cho thời đại hy vọng của Giáo hội. Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu, như vị Thượng Tế, giơ tay chúc lành cho Giáo hội (Lc 24,50), và các môn đệ đáp lại bằng tư thế phụng vụ: “Các ông bái lạy Người” (Lc 24,52), ngợi khen và hân hoan. Đây không phải là cuộc chia ly, mà là khai mạc sứ mạng mới của Giáo hội.

Sách Công vụ Tông đồ, phần thứ hai của tác phẩm Luca, mở đầu bằng một trình thuật Thăng Thiên khác (Cv 1,1-11), mô tả Đức Kitô Phục Sinh trong vinh quang, “được đặt ngự bên hữu Thiên Chúa trên cõi trời, vượt trên mọi quyền thần, dũng thần và chủ thần” (Ep 1,20-21). Qua biến cố này, Giáo hội không chỉ chiêm ngưỡng mầu nhiệm Đức Kitô mà còn khám phá vận mệnh của chính mình: sau hành trình loan báo Tin Mừng trong lịch sử, Giáo hội sẽ bước vào vinh quang của Chúa.

Tuy nhiên, con đường ấy không dễ dàng. Các thiên sứ nhắc nhở: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1,11). Giáo hội được mời gọi trở về với Giêrusalem trần thế, sống trọn vẹn sứ mạng qua con đường khổ nạn, để cửa Giêrusalem thiên quốc mở ra. Thăng Thiên vì thế không phải là giấc mơ hão huyền, mà là biểu tượng mối liên kết giữa hiện tại và tương lai, giữa thực tế và “niềm hy vọng do ơn Thiên Chúa kêu gọi” (Ep 1,18).

Để tránh những thái cực trong đời sống đức tin, như cám dỗ “đứng nhìn trời” của các phong trào khải huyền, hay chủ nghĩa duy thế tục của một số nền thần học giải phóng, Công đồng Vatican II nhấn mạnh: “Niềm trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này” (Vui Mừng và Hy Vọng, số 39). Thăng Thiên khẳng định sự kết hợp giữa lịch sử và vĩnh cửu, giữa sứ mạng trần thế và đích đến thiên quốc.

Chứng nhân của khổ nạn

Trong giây phút Thăng Thiên, Đức Giêsu mời gọi các Tông đồ: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại” (Lc 24,46-48). Các môn đệ được kêu gọi loan báo Tin Mừng, kêu gọi muôn dân sám hối để được ơn tha tội, bắt đầu từ Giêrusalem. Làm chứng nhân không chỉ là nói về niềm vui Phục Sinh, mà còn là làm chứng cho thập giá, khổ đau, và sự thật.

Làm chứng nhân cho tình thương – qua việc chăm sóc người nghèo, bệnh tật, hoặc xóa nạn mù chữ – thường được hoan nghênh. Nhưng làm chứng nhân cho sự thật và công lý, như Đức Giêsu và các ngôn sứ đã làm, thường phải trả giá đắt. Trong truyền thống Công giáo, “chứng nhân” (martyr) đồng nghĩa với “tử đạo”, vì làm chứng cho sự thật có thể dẫn đến đau khổ và hy sinh. Một chứng từ cảm động từ một Giám mục Công giáo tại Trung Quốc năm 1999 cho thấy điều này: trong bối cảnh bị quản thúc, bị giám sát chặt chẽ, các linh mục và tín hữu vẫn âm thầm sống đức tin, bất chấp nguy cơ bị trừng phạt. Họ khẳng định: “Giáo hội Công giáo là Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền”, và mối liên kết với Đức Giáo hoàng là như “cành với cây nho” [*]. Dù bị đàn áp, đức tin của họ vẫn kiên vững, như báo cáo năm 2024 từ Viện Hudson chỉ ra, khi Công giáo tại Trung Quốc tồn tại nhờ lòng trung thành của các tín hữu, bất chấp kiểm soát nghiêm ngặt từ chính quyền.

Sống sứ mạng chứng nhân

Thăng Thiên không chỉ là biến cố của Đức Giêsu, mà là lời mời gọi mỗi Ki-tô hữu trở thành chứng nhân Tin Mừng. Chúng ta được kêu gọi sống đức tin qua con đường khổ nạn, làm chứng cho sự thật và công lý, dù phải đối mặt với thử thách. Như Đức Giêsu đã chúc lành cho các môn đệ, chúng ta được mời gọi mang Tin Mừng đến muôn dân, bắt đầu từ “Giêrusalem” của cuộc sống hằng ngày, để chuẩn bị cho ngày bước vào vinh quang thiên quốc. Xin Chúa Phục Sinh hướng dẫn chúng ta trở thành những chứng nhân trung thành, sống động, và can đảm. mục lục

[*]: Chứng từ của Giám mục Công giáo tại Trung Quốc, trích từ thông tấn xã Fides, tháng 11/1999.

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

XIN CHO ĐƯỢC ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

Bốn mươi ngày sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã lên trời trên núi Olives gần làng Bethany trước mặt 11 Tông Đồ (TĐCV 1:9-12; Luca 24:50-51). Tông Đồ Công Vụ đã diễn tả cảnh thầy trò chia tay như sau: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (1:9-11)

Lễ Chúa Giêsu Lên Trời hay còn được gọi là Lễ Thăng Thiên hay Lễ Chúa Về Trời. Đây là lễ được cử hành cùng với Tuần Thương Khó và Lễ Hiện Xuống trong các Giáo Hội Kitô Giáo, Giáo Phái Tin Lành Methodist và Công Giáo. Theo truyền thống Lễ Chúa Giêsu Lên Trời được cử hành vào Thứ Năm, ngày thứ 40 sau Phục Sinh, mặc dù có thể dời vào Chúa Nhật theo sau gọi là Chúa Nhật Chúa Lên Trời. Lễ này cũng báo trước Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống 10 ngày sau đó.

Lịch sử

Theo Eusebius, sử gia Kitô Giáo, nhà thơ, nhà chú giải Thánh Kinh, và là Giám Mục Caesarea Maritima AD 314, việc cử hành Lễ Chúa Về Trời bắt đầu từ thế kỷ thứ 4. Nguyên thủy có thể việc cử hành lễ này là một phần của Lễ Hiện Xuống và Phục Sinh, và đã được tách ra thành lễ riêng từ thế kỷ thứ 5. Thánh Augustinô, giám mục Hippo cho rằng lễ này bắt đầu từ thời các Tông Đồ. Nó được nhắc đến trong các tác phẩm của Thánh Gioan Kim Khẩu, Giáo Phụ và Tổng Giám Mục Constantinople, Thánh Gregory Nyssen, Giám Mục Nyssa và trong những tài liệu khác nói về đêm canh thức được Giáo Hội cử hành tại hang Bethlehem, nơi mà theo truyền thống Chúa Giêsu đã được sinh ra. Những bài thánh ca về lễ này cũng được tìm thấy trong Sách Hát Georgian Jerusalem, trong đó bao gồm tại liệu được sáng tác trong thế kỷ thứ 5.

Trong ngày lễ mọi người đi tham dự Thánh Lễ, cầu nguyện.

Tại một số nơi, các tín hữu rước kiệu, diễn nguyện cảnh Chúa Giêsu được cất lên trời.

Theo lịch sử, một số nước tại Châu Âu, người ta có những truyền thống đặc biệt, thí dụ ăn thịt các loài chim, tượng trưng cho việc Chúa bay về trời. Và tại một số quốc gia khác như Áo, Bỉ, và Đức, Lễ Chúa Lên Trời là ngày lễ nghỉ quốc gia.

Kitô Giáo Tây Phương

Những từ ngữ Latin được dùng cho lễ này, ascension, và một đôi khi, ascensa, chỉ rằng Chúa Kitô được nhắc lên bằng quyền lực của chính mình, và từ đó thánh lễ này mang tên của nó. Đối với anh chị em Kitô Giáo Tây Phương, từ thế kỷ 15, đã tổ chức đêm canh thức, và tuần bát nhật để chuẩn bị mừng lễ, nó khác với tuần cửu nhật trước Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Trong vui mừng, cậy trông, và hy vọng, chúng ta hãy cùng dâng lên Thiên Chúa lời nguyện: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, Đấng chúc lành cho Chúa Con là Chúa Giêsu Cứu Chúa chúng con được nâng lên trên các tầng trời, để hoàn tất mọi sự. Xin xót thương ban cho chúng con được đón nhận những gì Ngài đã hứa khi còn ở với các môn đệ của Ngài trên mặt đất, cho đến tận cùng thế giới, nhờ danh Đức Giêsu là Chúa của chúng con.”

Kitô Giáo Đông Phương và Chính Thống Giáo

Trong Giáo Hội Đông Phương, lễ này được biết đến theo tiếng Hy Lạp như Analepsis, “đưa lên”, hoặc Episozomene, “Ơn cứu độ từ trên cao”, nói lên rằng bởi việc Ngài được đưa về trời trong vinh quang, Đức Kitô đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại. Lễ Thăng Thiên là một trong 12 đại lễ trong lịch phụng vụ Chính Thống Giáo.

Ái một những sự trên trời

“Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đấng vừa lìa các ông lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời.” (TĐCV 1:11) Lời của hai người mặc áo trằng đã nói với các tông đồ hôm đó cũng là lời mà Chúa Giêsu muốn chúng ta nghe rõ và suy niệm. Nó phản ảnh đầy đủ trong niềm tin mà thường ngày chúng ta vẫn tuyên xưng: “Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Và Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”

Chúa Giêsu Kitô lên trời nhấn mạnh đến niềm tin của các Kitô hữu về thân xác về trời của Ngài. Maria Mađalêna trong buổi sáng Phục Sinh đã gặp được Chúa. Bà muốn ôm lấy chân Ngài, muốn giữ Ngài lại cho riêng bà, nhưng Chúa Giêsu đã nói: “Đừng chạm đến Thầy, vì Thầy chưa về cùng Cha Thầy. Hãy đi và nói với các anh em Thầy, ‘Thầy sẽ về cùng Cha Thầy và Cha của anh em, về cùng Thiên Chúa Thầy và Thiên Chúa của anh em.’” (Gioan 20:17-31)

Nhưng Chúa về trời không để chúng ta mồ côi, Ngài đã nói: “Nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.” (TĐCV 1: Đây là sứ mệnh Ngài để lại cho các môn đệ và cho chúng ta, sứ mạng làm chứng nhân cho Ngài khắp nơi trên thế giới, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần: “Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và này, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:19-20)

Chúa Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện với chúng ta trong Thánh Thể, trong Phúc Âm, và qua sứ mệnh mà Ngài trao cho mỗi người. Trong khi chờ đợi được gặp gỡ Ngài sau cuộc hành trình trần thế, chúng ta hãy luôn hướng lòng mình lên để “ngưỡng mộ những sự trên trời”, nơi đó Ngài đang chờ đợi chúng ta. mục lục

Trần Mỹ Duyệt

 

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.