SUY NIỆM LỄ HAI THÁNH PHÊRÔ & PHAOLÔ (CN 13 TN)
[Cv 12,1-11; 2 Tm 4,6-8.17-18; Mt 16,13-19]
BÀN THẠCH – TRỤ ĐỒNG – + ĐTGM Giu-se Vũ Văn Thiên
PHÊRÔ ĐÁ TẢNG, PHAOLÔ NHÀ TRUYỀN GIÁO – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
ĐỨC TIN VÀ ƠN GIẢI THOÁT – Phêrô Phạm Văn Trung
MÔN ĐỆ CỦA CHÚA GIÊSU – HỌ LÀ AI? – Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
KHÔNG LIỀU TỪ BỎ, CHẲNG XỨNG NƯỚC TRỜI – Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
HAI THÁNH PHÊRÔ và PHAOLÔ TÔNG ĐỒ: BÀN THẠCH – TRỤ ĐỒNG
Bàn thạch Phê-rô trường tồn thay!
Đồng trụ Phao-lô trường tồn đây!
Đó là lời trích từ bài thánh ca của nhạc sĩ Hùng Lân và Hùng Thái Hoan mang tựa đề “Hai người tiên phong”. Lời của bài thánh ca diễn tả vai trò quan trọng của hai vị Tông đồ đối với Giáo hội, là cộng đoàn do Chúa Giê-su thiết lập. Phê-rô được ví như bàn thạch; Phao-lô được sánh như trụ đồng. Chúa Giê-su đã nói với Phê-rô: “Anh là Kê-pha, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Người cũng nói với Phao-lô: “Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết” (Cv 26,16). Phao-lô luôn ý thức ơn Chúa gọi, và ông đã khẳng định: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1,15-16).
Dù còn mang nhiều yếu tố nhân loại, Giáo hội Ki-tô không phải là công trình của con người, nhưng là công trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch của Ngài trong việc thiết lập và điều khiển cộng đoàn những người tôn thờ Chúa. Qua hai vị tông đồ là Phê-rô và Phao-lô, chúng ta thấy sự kỳ diệu của chương trình này. Nếu Phê-rô là bàn thạch của ngôi nhà Giáo hội, thì Phao-lô là trụ đồng để nâng đỡ ngôi nhà đó. Không có bàn thạch, ngôi nhà không thể bền vững với thời gian; không có trụ đồng, ngôi nhà không thể che chắn bão mưa giăng đầy. Qua các thư, nhất là thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô đã trình bày một hệ thống giáo lý chắc chắn và có sức thuyết phục đối với người Do Thái cũng như dân ngoại. Ông khẳng định: “Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai” (Rm 3,21-22). Với khẳng định này, Phao-lô đã đưa nhân loại sang một trang sử mới, đó là trang sử được viết bằng máu Đức Giê-su và chiến thắng của Người trên sự chết.
Nếu Phê-rô, vốn là một người dân chài đơn sơ chất phác, hăng hái làm chứng về Đức Giê-su phục sinh, thì Phao-lô, một người uyên bác đã học theo trường phái Ga-ma-li-en (x.Cv 22,30), lại ưu tư xây dựng một hệ thống giáo lý với mục đích trình bày kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa nay đã được thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô.
Nếu Ki-tô giáo chỉ có Phê-rô, có thể Giáo hội chỉ đến với giới bình dân và giới hạn nơi người Do Thái; Nếu Ki-tô giáo chỉ có Phao-lô, Giáo hội sẽ chỉ có những người uyên thâm trí thức. Hai vị thánh này đã tạo nên một hình ảnh hài hòa đa chiều về cộng đoàn tín hữu do Chúa Giê-su thiết lập. Sự hài hòa ấy được diễn tả trong Kinh Tiền tụng của ngày lễ: “Thánh Phê-rô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phao-lô là người làm sáng tỏ đức tin. Thánh Phê-rô thiết lập Hội thánh tiên khởi cho người Ít-ra-en, thánh Phao-lô là thầy giảng dạy muôn dân”. Chính việc “làm sáng tỏ đức tin” này đã làm cho Phao-lô trở thành cột trụ vững chắc của Giáo hội, nhất là khi phải đối diện với thù trong giặc ngoài. Khởi đi từ giáo huấn của thánh Phao-lô, Giáo hội có thể đối thoại với mọi nền văn hóa và mọi thời đại.
Để trung thành với sứ mạng Chúa Giê-su trao phó, hai vị thánh tông đồ của chúng ta đã đều chấp nhận cái chết. Cuộc tử đạo của các ngài đã làm nên sức mạnh của cộng đoàn tín hữu tiên khởi. “Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính”. (2 Tm 6-8). Những lời trải lòng của Phao-lô với người môn sinh của mình đã cho thấy ông luôn sẵn sàng chấp nhận hy sinh làm lễ tế dâng lên Thiên Chúa. Vị Tông đồ luôn xác tín vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa, chắc chắn sẽ được đón nhận phần thưởng thiên quốc, vì suốt đời ông đã chiến đấu cho chính nghĩa.
Ngày lễ hôm nay vừa nhắc lại nền tảng vững chắc của Giáo hội Chúa Ki-tô, vừa mời gọi mỗi tín hữu hiệp thông với Đức Giáo hoàng Rô-ma, người kế vị thánh Phê-rô để lãnh đạo Giáo hội. Phụng vụ cũng mời gọi chúng ta noi gương các ngài để chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa, làm cho vương quốc của Thiên Chúa lan rộng trên trần gian. Mỗi Ki-tô hữu là một tông đồ, tức là người được sai đi để loan báo Lời Chúa. Nhờ lời chuyển cầu của hai thánh tông đồ Phê-rô và Phao-lô, xin cho chúng ta có sức mạnh và nhiệt tình để thực thi sứ vụ cao cả này. mục lục
+ ĐTGM Giu-se Vũ Văn Thiên
PHÊRÔ ĐÁ TẢNG – PHAOLÔ NHÀ TRUYỀN GIÁO
Thánh lễ hôm nay đưa chúng ta về với hai cột trụ nền tảng của Hội Thánh là Phê-rô và Phao-lô. Hai vị tông đồ vĩ đại, khác nhau về gia cảnh, thân thế, trình độ, tính cách, hành trình đức tin và ơn gọi. Nhưng cả hai đều được Chúa Giê-su dùng để xây dựng Hội Thánh. Phê-rô Đá Tảng được tuyển chọn. Phao-lô nhà truyền giáo vĩ đại.
Thánh Phê-rô – Đá tảng được tuyển chọn
Thánh Phê-rô, với tên cúng cơm là Si-mon con ông Giô-na, làm nghề chài lưới miền Ga-li-lê, đã được Chúa Giê-su gọi để trở thành “kẻ lưới người ta” (Mt 4,19). Cuộc đời của ngài là một hành trình được uốn nắn qua đức tin, yếu đuối, sa ngã, nhưng sau cùng là lòng trung thành đến chết.
Khi Chúa Giê-su hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, chính Phê-rô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,15-16). Chúa Giê-su đã chúc phúc cho Phê-rô và tuyên bố: “Con là Đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…” (Mt 16,18).
Mỗi lần đọc đoạn Tin Mừng (Ga 21, 15-19) với ba lần Chúa Giê-su hỏi Phê-rô: “Si-mon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Hai lần ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Lần thứ ba ông thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”, không khỏi làm chúng ngỡ ngàng về sự lựa chọn của Chúa khi bảo Phê-rô: “Hãy chăm sóc chiên con… chiên mẹ… của Thầy” (x. Ga 21.15.16.17). Đáp lại sự tín nhiệm của Thầy, Phê-rô đã thi hành sứ mạng cách trung thành cho đến tử vì Đạo tại Rô-ma, đến nỗi đóng đinh ngược đầu như lời thánh giáo phụ Origen kể lại. Đúng như lời thánh Au-gút-ti-nô nói: “Trong Phê-rô, chúng ta thấy hình ảnh của Giáo hội: yếu đuối nhưng được củng cố bởi ân sủng và quyền năng Chúa”.
Thánh Phao-lô – Nhà truyền giáo vĩ đại
Khác hẳn với Phê-rô, Phao-lô, một con người trí thức Do Thái thuộc chi tộc Ben-gia-min, công dân Rô-ma và là một Pha-ri-siêu nhiệt thành. Trước khi trở thành Tông Đồ, ông là kẻ bách hại Hội Thánh Chúa (x. Cv 8,3). Nhưng chính ông đã được biến đổi tận căn khi được Chúa Ki-tô phục sinh hiện ra với ông trên đường đi Đa-mát: “Sau-lê, Sau-lê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (Cv 9,4)
Trước khi gặp Chúa Giê-su Phục Sinh, vì lòng nhiệt thành với Đạo Do Thái, ông đã bắt bớ những người theo Chúa Giê-su (x.Cv 8,3-9,2), cố tình tiêu diệt Hội Thánh ngay từ lúc phôi thai, làm cho Kha-na-ni-a khiếp sợ (x.Cv 9,13-14). Được Chúa Giê-su Phục Sinh biến đổi, ông gắn bó với Người bằng tình yêu không thể chia lìa, ông nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ?” (Rm 8,35). Đức Ki-tô đã trở nên “người yêu” và “người tình” của Phao-lô. Đức Ki-tô không ngừng ám ảnh ông, đến độ Phao-lô phải thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Ga 2, 20). Phao-lô, vị thánh mệnh danh là bị tình yêu Đức Ki-tô thúc bách (x. 2 Cr 5,15). Chính ngài đã chịu nhiều đau khổ như bị gông cùm, tù tội, đánh đòn, đắm tàu… vì Danh Đức Giê-su Ki-tô. Và cuối cùng, ngài đã hiến dâng mạng sống như một của lễ toàn thiêu, chịu chém đầu tại Rô-ma dưới thời hoàng đế Nê-ron.Thánh Gio-an Kim Khẩu nhận xét: “Nếu Phê-rô là tảng đá, thì Phao-lô là đền đài được xây dựng trên đó. Cả hai nâng đỡ Hội Thánh bằng lời rao giảng và máu đào của mình”.
Tông Đồ của tình yêu và lòng mến
Tình Yêu của Thiên Chúa nhập thể, Tình Yêu này khi mặc lấy xác phàm, biểu lộ quyền năng và sức mạnh vô biên của Thiên Chúa trong sự yếu đuối, mỏng giòn của con người. Chính vì sự yếu đuối nghèo hèn của Phê-rô mà Chúa Giê-su trao Giáo hội của mình cho ông. Chính sự nhiệt thành đầy kiều hãnh của Phao-lô, mà Chúa đặt ông làm Tông đồ dân ngoại, để cùng với Phê-rô thể hiện sự tràn đầy của Chúa Giê-su Tình Yêu. Phê-rô dạy chúng ta trung thành và can đảm làm chứng cho đức tin dù yếu đuối. Thánh Phao-lô dạy chúng ta sự hoán cải không ngừng và lòng hăng say rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh.
Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta rằng: Giáo hội không được xây trên sự hoàn hảo của con người, nhưng trên ân sủng và lòng trung tín của Thiên Chúa. Như lời Thánh Phao-lô: “Ơn của Chúa đủ cho tôi, vì sức mạnh của Người được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Cả hai đã đón nhận tình yêu của Chúa Giê-su và để cho mình được tình yêu Chúa biến đổi. Cả hai đã trở nên Tông Đồ vĩ đại của tình yêu và lòng mến.
Nếu hôm nay Chúa Giê-su hỏi mỗi người chúng ta cùng một câu hỏi như Chúa hỏi Phê-rô: “Con có yêu mến Thầy không?” Chúng ta trả lời Chúa ra làm sao? Chúng ta yêu mến Chúa thế nào? Phê-rô chỉ cách cho chúng ta: tin tưởng vào Chúa, Ðấng “biết mọi sự” về chúng ta, Ðấng tin nơi chúng ta không phải vì chúng ta có khả năng trung thành, nhưng vì lòng trung thành vững chắc của Chúa. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta hãy yêu mến Chúa và Giáo hội hết lòng và làm tất cả vì Chúa: “Dù anh em ăn, uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh danh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31 ).
Kính lạy hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô, Đá Tảng của Hội Thánh, nhà truyền giáo vĩ đãi, chứng nhân của tình yêu và lòng mến, xin cầu cùng Chúa cho chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trong mọi người. Amen. mục lục
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về hành trình đức tin, sự thử thách, và ơn giải thoát của Thiên Chúa dành cho những ai đặt niềm tin vào Ngài. Qua hành trình của thánh Phêrô và thánh Phaolô đi rao giảng Tin Mừng, chúng ta thấy được sức mạnh của lời cầu nguyện, sự can thiệp của Thiên Chúa, và sứ mạng xây dựng Hội Thánh.
1. Đức Tin Trong Thử Thách
Trong Công vụ Tông đồ 12:1-11, chúng ta chứng kiến cảnh thánh Phêrô bị vua Hêrôđê giam cầm. Ngài bị xiềng xích, canh gác nghiêm ngặt, và đối diện với cái chết. Tuy nhiên, đoạn Kinh Thánh nhấn mạnh: “Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12:5). Lời cầu nguyện của cộng đoàn đã trở thành nguồn sức mạnh, dẫn đến sự can thiệp kỳ diệu của thiên sứ, giải thoát Phêrô khỏi ngục tù. Phêrô, trong giấc ngủ, tưởng mình đang mơ, nhưng cuối cùng nhận ra: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Ngài đến, và Ngài đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê” (Cv 12:11).
Thánh Augustinô, trong bài giảng về thánh Phêrô và Phaolô, nhấn mạnh rằng sự giải thoát của Phêrô không chỉ là một phép lạ thể lý, mà còn là biểu tượng của ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho những ai tin cậy Ngài. Ngài viết: “Phêrô bị xiềng xích bởi con người, nhưng được giải thoát bởi Thiên Chúa, để nhắc nhở chúng ta rằng không có quyền lực nào lớn hơn quyền năng của Đấng Sáng Tạo muôn loài” (Thánh Augustinô: Bài giảng 295, Patrologia Latina).
Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh vai trò của lời cầu nguyện cộng đoàn. Ngài nói: “Hội Thánh cầu nguyện là Hội Thánh sống động. Khi chúng ta cầu nguyện cho nhau, chúng ta mời gọi Chúa hành động, và Ngài luôn lắng nghe” (Bài giảng tại Nhà nguyện Thánh Mácta, ngày 29/6/2016).
Cha Walter Ciszek, một linh mục Dòng Tên người Mỹ gốc Ba Lan, bị bắt giam tại Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh vì bị nghi là gián điệp Vatican. Trong trại lao động Siberia khắc nghiệt, Cha Ciszek đối mặt với cái chết vì đói khát, bệnh tật và tra tấn tinh thần. Một đêm tuyệt vọng trong xà lim cô lập tại nhà tù Lubianka, Cha Ciszek cầu nguyện và cảm nhận một sự hiện diện siêu nhiên an ủi, mà ngài tin là sự can thiệp của Chúa qua thiên sứ. Ngay sau đó, ngài được chuyển khỏi xà lim cô lập – một điều hiếm hoi – và được phép tiếp tục sống, dù vẫn trong điều kiện khắc nghiệt.
Trong hồi ký With God in Russia, Cha Ciszek kể lại khoảnh khắc này như một phép màu, tin rằng Chúa đã sai thiên sứ đến cứu ngài khỏi nguy khốn thể xác và tinh thần, giống như Thánh Phêrô được thiên sứ giải thoát khỏi ngục tù. Sự sống sót và niềm tin kiên định của ngài là minh chứng cho sự che chở của Chúa. Ngài sống sót qua 23 năm tù đày và được thả vào năm 1963, tiếp tục sứ vụ truyền giáo (Ciszek, Walter J., và Daniel L. Flaherty. With God in Russia. Ignatius Press, 1997).
2. Sứ Mạng Giữa Gian Nan
Trong thư gửi Timôthê, thánh Phaolô suy niệm về hành trình đức tin của mình. Ngài viết: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2 Tm 4:7). Dù đối diện với nhiều hiểm nguy, Phaolô vẫn tin rằng “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Ngài đã ban sức mạnh cho tôi” (2 Tm 4:17). Lời chứng này cho thấy đức tin không chỉ là niềm hy vọng thụ động, mà là sự dấn thân tích cực trong sứ mạng loan báo Tin Mừng, ngay cả khi đối diện với khổ đau.
Thánh Irênê thành Lyon ca ngợi thánh Phaolô vì lòng trung thành với sứ mạng. Thánh nhân viết: “Phaolô, qua những đau khổ, đã trở thành chứng nhân sống động cho Tin Mừng, để các dân ngoại nhận biết Chúa” (Tác phẩm Chống Lạc Giáo - Adversus Haereses, III, 1, 1).
Đức Bênêđíctô XVI nhấn mạnh rằng đức tin là nguồn hy vọng giữa những thử thách. Ngài viết: “Đức tin mang lại ý nghĩa cho đau khổ, vì nó kết nối chúng ta với Thiên Chúa, Đấng luôn đồng hành” (Thông điệp Spe Salvi, 2007, số 7).
Chân phước Anrê Phú Yên, sinh ra trong một gia đình nghèo, sớm được mẹ giáo dục đức tin. Năm 17 tuổi, thầy được cha Đắc Lộ nhận vào Hội Thầy Giảng và tuyên hứa tại Hội An năm 1643. Anrê đồng hành cùng cha Đắc Lộ và các thầy giảng khác trên hành trình truyền giáo khắp miền Trung, dù là người nhỏ tuổi nhất.
Tháng 7 năm 1644, khi quan Nghè Bộ truy lùng các thầy giảng, đặc biệt là thầy Ignatio, Anrê đã tự nguyện thế chỗ. Thầy tin cái chết của mình sẽ ít ảnh hưởng đến cộng đoàn hơn. Anrê vui vẻ chấp nhận bị bắt, và trên đường đến ngục, thầy không ngừng rao giảng Tin Mừng. Ngày hôm sau, Anrê bị đưa ra tòa xét xử. Dù cha Đắc Lộ tìm cách can thiệp, quan vẫn quyết định tử hình chàng thanh niên 19 tuổi. Anrê hiên ngang tuyên bố: “Ước chi tôi có được ngàn mạng sống để hiến dâng tất cả cho Thiên Chúa hầu đền đáp ơn Ngài.” Nghe bản án tử hình, thầy vẫn thanh thản, khích lệ những người đến thăm và lặp lại: “Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp lại tình yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy mạng sống đáp lại mạng sống.”
Khoảng 5 giờ chiều ngày 26 tháng 7 năm 1644, thầy Anrê bị áp giải ra Gò Xử để hành quyết. Trước lúc lìa trần, thầy nhắn nhủ các tín hữu: “Hãy luôn kiên vững trong đức tin, đừng buồn phiền vì cái chết của thầy, và hiệp lời cầu cho thầy được trung kiên tới cùng.” Thầy Anrê qua đời khi vẫn không ngừng kêu lên danh thánh "Giêsu".
Chân phước Anrê Phú Yên đã sống một đời tận hiến, đối mặt với “cuộc thi đấu cao đẹp” khi bị bắt và tra tấn vì đức tin. Ngài đã “chạy hết chặng đường” bằng cách giữ vững niềm tin, không chối bỏ Chúa ngay cả khi bị đe dọa tính mạng, và trở thành chứng nhân tử đạo đầu tiên của Giáo hội Việt Nam (Web HĐGMVN, 25/07/2022).
3. Đức Tin Xây Dựng Hội Thánh
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16:15). Phêrô, được Chúa Thánh Thần soi sáng, tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Đáp lại, Chúa Giêsu trao cho Phêrô sứ mạng: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16:18). Lời hứa này khẳng định vai trò nền tảng của Phêrô trong việc xây dựng cộng đoàn đức tin.
Thánh Lêô Cả nhấn mạnh rằng Phêrô là biểu tượng của sự hiệp nhất Hội Thánh. Ngài viết: “Chúa đặt Phêrô làm nền tảng, để Hội Thánh luôn kiên định trong đức tin, bất chấp sóng gió” (Bài giảng I về thánh Phêrô và Phaolô, số 54).
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở rằng mỗi Kitô hữu được mời gọi tham gia vào sứ mạng của Phêrô. Ngài viết: “Mọi người trong Hội Thánh, qua Bí tích Rửa tội, đều được mời gọi trở thành những viên đá sống động, góp phần xây dựng cộng đoàn đức tin” (Tông huấn Christifideles Laici, 1988, số 19).
Bà Maria Goretti, sinh năm 1960 tại khu ổ chuột São Paulo, Brazil, sớm ý thức sứ mạng phục vụ Hội Thánh. Vào những năm 1980, khi khu vực này chìm trong đói nghèo và bạo lực, cô Maria lúc đó mới 20 tuổi đã bắt đầu tổ chức các lớp giáo lý miễn phí tại nhà. Cô dạy trẻ em về đức tin Công giáo, cầu nguyện và các giá trị Kitô giáo bằng những tài liệu đơn sơ. Cô Maria còn phối hợp với giáo xứ São José thành lập nhóm bác ái, quyên góp thực phẩm và quần áo giúp đỡ các gia đình nghèo, kể cả người không Công giáo. Năm 1995, cô vận động xây dựng một trung tâm cộng đồng nhỏ, tổ chức cầu nguyện, lớp học và hỗ trợ y tế. Dù học vấn hay nguồn lực hạn chế, cô Maria đã biến cộng đoàn từ nhóm nhỏ thành một cộng đoàn đức tin gắn kết với hơn 500 thành viên. Cô thường chia sẻ: “Bí tích Rửa tội đã làm tôi thành con cái Chúa, nên tôi phải sống để xây dựng Hội Thánh, như một viên đá nhỏ nhưng bền vững.” Năm 2020, bà Maria qua đời nhưng di sản của bà vẫn tiếp tục qua trung tâm cộng đồng và các lớp giáo lý. Bà là gương sáng về sứ mệnh của giáo dân, minh chứng rằng mỗi tín hữu đều có thể trở thành “viên đá sống động” trong việc xây dựng Hội Thánh (Web Tổng Giáo phận São Paulo, mục “Testemunhos de Fé - Chứng từ Đức tin”, ngày 15/10/2020).
Lời Chúa mời gọi chúng ta sống đức tin cách mạnh mẽ, ngay cả trong những thử thách lớn lao như thời các Tông đồ: “Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan…nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa…Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục” (Cv 12: 1-4). Thánh Phêrô được giải thoát khỏi ngục tù nhờ lời cầu nguyện và sự can thiệp của Thiên Chúa: “Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người..Đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Ngài đến, và Ngài đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê” (Cv 12: 10-11). Thánh Phêrô, qua lời tuyên xưng đức tin, trở thành nền tảng cho Hội Thánh. Thánh Phaolô hoàn thành sứ mạng nhờ sức mạnh từ Chúa: “Chúa sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Ngài ở trên trời. Chúc tụng Ngài vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:18).
Tất cả nhắc nhở chúng ta rằng đức tin không chỉ là niềm tin cứu độ cá nhân, mà còn là sức mạnh cộng đoàn. Hãy cầu nguyện không ngừng, sống đức tin với lòng can đảm, và dấn thân xây dựng Hội Thánh, để một ngày kia cũng được nhận phần thưởng là “vòng hoa dành cho người công chính” (2 Tm 4:8). mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung
MÔN ĐỆ CỦA CHÚA GIÊSU – HỌ LÀ AI?
Bài chia sẻ suy niệm Tin Mừng – Chúa nhật XIII Thường niên, Năm C
Anh chị em thân mến,
Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng các môn đệ của Chúa Giêsu là những người hiền lành, dễ thương, thánh thiện, đạo đức và nhân hậu như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Nhưng… có thật như vậy không?
Hoàn toàn ngược lại!
Nếu không tin, bạn cứ mở Phúc Âm ra mà đọc thì sẽ thấy: các Tông đồ – những vị Giáo hoàng và Giám mục tiên khởi của Hội Thánh Công giáo – không ai “ra làm sao cả”.
Chẳng hạn như thánh Phêrô: một con người nóng nảy, bột chột, cứng lòng tin, độc đoán, nhút nhát như “cy”, giỏi nói dóc. Rõ ràng nhất là lần ngài chối Thầy ba lần.
Còn Gioan và Giacôbê – như được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay – là những người nóng nảy, hung hăng kiểu “ISIS”: họ đòi khiến lửa từ trời thiêu hủy cả làng người Samari, chỉ vì dân làng dám từ chối đón tiếp Chúa Giêsu.
Ngày xưa thế nào, thì ngày nay vẫn vậy.
Suốt chiều dài hơn 20 thế kỷ của lịch sử Giáo hội, 100% những người đi theo Chúa trong đời sống tu trì đều là những con người yếu đuối, tội lỗi và khiếm khuyết, mang trong mình đầy đủ “tham – sân – si – hỷ – nộ – ái – ố”. Không thiếu những gương mù gương xấu, những vụ bê bối nghiêm trọng trong hàng ngũ giáo sĩ, tu sĩ, giáo phẩm.
Lịch sử đã từng ghi nhận có những Giáo hoàng có con rơi, những Hồng y – Giám mục tham nhũng, mua chức bán quyền, củng cố địa vị. Có những linh mục phản loạn, ly khai khỏi Giáo hội, công khai chống đối, làm Mẹ Giáo hội phải đau khổ. Ngày nay cũng thế, không khác gì.
Có những linh mục, tu sĩ tham lam tiền bạc như Giuđa Iscariôt – làm gì cũng nhắm đến lợi ích cá nhân, thậm chí biển thủ tiền của giáo xứ hay trường học để đi chơi casino. Có người giống như Gioan và Giacôbê: thích quyền lực, thích địa vị, thích “ghế bề trên”.
Có những linh mục, tu sĩ thích khoe khoang hình ảnh, đồng hồ, xe cộ, bằng cấp trên mạng xã hội; đi đâu, ăn gì, mặc gì cũng đều đưa lên cho cả thế giới biết. Có người lợi dụng truyền thông xã hội để công kích Đấng Bản quyền, chỉ trích giáo huấn Hội Thánh.
Có những Giám mục, linh mục, tu sĩ tại Đức hùa theo phong trào, đòi phong chức linh mục cho phụ nữ, chúc lành cho hôn nhân đồng tính, lấp lửng trong luật cấm phá thai…
Nhưng chia sẻ những điều này, tôi không nhằm bêu xấu ai cả, vì tôi cũng là một linh mục, cũng thuộc về hàng giáo sĩ. Tôi chia sẻ với ba ước nguyện sau:
- Thứ nhất, xin bạn đừng thần thánh hóa ai cả, dù đó là tu sĩ, linh mục, giám mục hay giáo hoàng. Dù họ có đạo đức, tài giỏi, học vị cao, thì họ vẫn chỉ là con người – với tất cả yếu đuối, khuyết điểm, đôi khi còn tệ hơn bạn là người sống đời hôn nhân hay độc thân. Chúa gọi và chọn họ, nhưng không cất đi những giới hạn con người nơi họ. Nếu bạn thần tượng họ, sẽ có ngày bạn thất vọng khi “thần tượng sụp đổ”.
- Thứ hai, xin bạn đừng để mất đức tin vì gương xấu của giáo sĩ, giáo phẩm hay tu sĩ. Nếu quá khứ bạn đã gặp, hoặc tương lai bạn sẽ thấy nơi hàng giáo sĩ – kể cả nơi tôi – có những tham – sân – si, tính toán thiệt hơn, ham địa vị, mê tiền của, hay cộc cằn, kiêu ngạo… thì xin bạn hãy có lòng thương xót, cầu nguyện và tha thứ. Vì chúng tôi chỉ là những con người điên dại, yếu đuối, hèn mọn, vô duyên, bất tài và rất cần sự cảm thông, nâng đỡ và cầu nguyện của bạn.
- Thứ ba, xin bạn ghi nhớ: Hội Thánh Công giáo thì thánh thiện, không tì ố, không vết nhăn (x. Ep 5,27); nhưng các chi thể trong Hội Thánh – tức là những người đã được rửa tội, kể cả các thừa tác viên như Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, Phó tế – đều là những kẻ tội lỗi (x. SGLCG số 827).
Tôi tin chắc rằng nếu bạn – và mỗi Kitô hữu:
-
Tránh thần tượng hóa hàng giáo sĩ;
-
Bình tĩnh trước những gương mù gương xấu;
-
Ghi nhớ giáo lý của Hội Thánh về sự thánh thiện và tội lỗi nơi các chi thể;
…thì đức tin của chúng ta sẽ kiên vững, lòng trung thành với Hội Thánh sẽ bền bỉ, và chúng ta sẽ theo Chúa cho đến cùng.
Chúc bạn và gia đình một tuần lễ mới bình an và tràn đầy ơn Chúa. mục lục
Lm. Đaminh Phạm Tĩnh, SDD
KHÔNG LIỀU TỪ BỎ, CHẲNG XỨNG NƯỚC TRỜI
Trang Tin Mừng hôm nay gồm ba phân đoạn thoạt nhìn có vẻ rời rạc: Đức Giêsu quyết định lên đường tiến về Giêrusalem; Người từ chối dùng bạo lực từ trời để trừng phạt những kẻ từ khước mình; và cuối cùng, Người đưa ra những đòi hỏi rất mạnh mẽ cho những ai muốn theo Người. Đây là một cơ hội quý báu để chiêm ngắm nhân cách của Đức Giêsu, những phản ứng sâu xa của Người, vốn mặc khải cho chúng ta biết nhiều điều về tâm lòng và thái độ của chính Thiên Chúa.
1. Đức Giêsu – Con Người của lòng can đảm
Từ đoạn Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay (Lc 9,51), bắt đầu phần mới được gọi là “hành trình lên Giêrusalem”. Trước đó, Đức Giêsu rao giảng chủ yếu ở Galilê, một vùng quê xa trung tâm, xa giới trí thức, biệt phái và luật sĩ – những người đã sớm kết án Người (x. Mc 3,6.22). Người đã hai lần tiên báo cuộc khổ nạn (Lc 9,22.43) – điều cho thấy Người biết rõ điều đang chờ mình phía trước.
Đức Giêsu có thể ở lại Galilê, hoặc lánh sang vùng dân ngoại bên kia Biển Hồ để tránh đau khổ và cái chết. Nhưng Tin Mừng cho thấy: “Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem” (Lc 9,51 – bản dịch NPD-CGKPV). Bản gốc Hy Lạp hàm ý: “Người đanh mặt lại”, nghĩa là cứng cỏi, quyết tâm, không chút chần chừ.
Cái chết của Người không phải là kết thúc bi thảm, nhưng là sự hoàn tất, thành tựu, và là sự siêu thăng (x. Lc 24,51), như Thánh Gioan từng diễn tả: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao…” (Ga 3,14; 8,28; 12,32–34).
Chính trong ý thức rõ ràng và mạnh mẽ đó, Đức Giêsu quyết liệt bước vào cuộc thương khó, giống như một ngôn sứ biết rằng mình chỉ có thể chết tại Giêrusalem (x. Lc 13,33).
✦ Bài học: Đức Giêsu là mẫu gương can đảm cho những ai đang đau khổ, đang đối diện thử thách và phải đứng vững giữa bão giông cuộc đời.
2. Đức Giêsu – Con Người của bất bạo động
Sau quyết định can đảm ấy, Đức Giêsu đi qua miền Samari – nơi thường có sự căng thẳng chủng tộc với người Do Thái. Khi bị từ chối tiếp đón, hai môn đệ Giacôbê và Gioan – biệt danh “con của thiên lôi” – phẫn nộ và xin được gọi “lửa từ trời xuống thiêu hủy cả làng” (x. Lc 9,54), như ngôn sứ Êlia từng làm (x. 2 V 1,10).
Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách họ. Một số thủ bản cổ thêm câu: “Các con không biết thần khí nào đang thúc đẩy mình” – hàm ý họ bị ảnh hưởng bởi một thần khí không thuộc về Thiên Chúa.
Đức Giêsu từ chối mọi bạo lực, từ chối dùng quyền năng thần linh để áp đặt hay trả thù. Người mặc khải một Thiên Chúa tôn trọng tự do con người đến tận cùng – ngay cả khi con người từ chối Người. Thập giá là đỉnh cao của lòng bất bạo động ấy: Người đón nhận bạo lực mà không trả đũa, yêu thương kẻ thù thay vì tiêu diệt họ.
✦ “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34) – đó không chỉ là lời cầu nguyện, mà còn là chân dung của Thiên Chúa.
✦ Bài học: Bất bạo động không phải là thụ động, nhưng là cách thức mạnh mẽ và can đảm nhất để chiến thắng sự dữ – không phải bằng trả đũa, mà bằng tình yêu và tha thứ.
3. Đức Giêsu – Con Người của đòi hỏi tuyệt đối
Sau khi thể hiện lòng khoan dung, Đức Giêsu lại đưa ra những đòi hỏi rất quyết liệt cho những ai muốn theo Người:
-
Không chấp nhận trì hoãn
-
Không chấp nhận ngoái nhìn quá khứ
-
Không cho phép điều kiện nào, dù là tình cảm gia đình, chen vào ơn gọi
Người nói: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại sau thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa” (Lc 9,62).
Đức Giêsu không bao giờ thoả hiệp với sự tầm thường, chậm chạp hay do dự thiêng liêng. Tin Mừng không dành chỗ cho những ai muốn “dẫn Chúa đi theo mình” thay vì đi theo Người.
✦ Bài học: Đi theo Chúa là một lựa chọn đòi hỏi toàn tâm toàn ý, lập tức, dứt khoát, kể cả khi phải hy sinh tình cảm, danh dự hay mạng sống.
4. Câu chuyện Titanic – Một minh họa sống động
Vào rạng sáng ngày 15.04.1912, tàu Titanic bị chìm sau khi va phải tảng băng trôi. Hơn 1.500 người chết đuối vì thiếu thuyền cứu sinh.
Trong số đó có triệu phú John Jacob Astor IV, người có tài sản đủ để đóng 30 chiếc Titanic. Nhưng thay vì giành một chỗ trên thuyền cứu hộ, ông nhường chỗ để cứu hai đứa trẻ đang hoảng loạn.
Isidor Straus, đồng sở hữu chuỗi cửa hàng Macy’s, tuyên bố: “Tôi sẽ không lên thuyền cứu sinh khi còn phụ nữ và trẻ em trên tàu.” Vợ ông, bà Ida Straus, cũng từ chối lên thuyền và nói: “Chúng ta đã sống bên nhau nhiều năm. Nơi nào anh đi, em cũng sẽ đi cùng.”
Họ đã từ bỏ tài sản, quyền lực, và mạng sống để giữ vững nguyên tắc đạo đức và tình yêu vị tha.
✦ Nếu con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thì chính những hành vi yêu thương đến độ từ bỏ chính mình ấy là dấu chỉ của Nước Trời đang hiện diện.
✦ Và trong ánh sáng Đức Tin, chắc hẳn họ sẽ nghe Thiên Chúa phán:
“Vì các con đã hy sinh mạng sống mình vì tình yêu, tức là vì Ta – Đấng là Tình Yêu – nên hãy vào hưởng hạnh phúc muôn đời.”
Kết luận
Đức Giêsu không bao giờ lôi kéo ta bằng phép lạ hay uy quyền cưỡng ép. Người mời gọi cách nhẹ nhàng nhưng dứt khoát, đòi hỏi chúng ta:
-
Can đảm như Người
-
Bất bạo động như Người
-
Từ bỏ chính mình như Người
Đức tin không dành cho những người nửa vời hay hay ngoái lại. “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).
“Không liều từ bỏ, chẳng xứng Nước Trời.” Xin Chúa ban ơn can đảm, trung tín và lòng mến để chúng ta xứng đáng là môn đệ Người trong thời đại hôm nay. Amen. mục lục
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.