SUY NIỆM CHÚA NHẬT 14 TN_C

07-07-2025 437 lượt xem

Lời Chúa: Is 66,10-14c; Gl 6,14-18; Lc 10,1-12.17-20

CẦN NHÀ TRUYỀN GIÁO ĐẦY XÁC TÍN, NHIỆT TÂM và CAN ĐẢM

Thưa anh chị em,

Bài Tin Mừng mà anh chị em nghe hôm nay là giáo huấn của Chúa Giêsu cho các môn đệ, khi Người sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Giáo huấn của Chúa thì phong phú lắm, nhưng tôi chỉ xin tập trung vào một câu thôi. Câu đó là thế này: Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói.” (x. Mt 10,16)

Sứ mạng giữa bầy sói

Hai hình ảnh hoàn toàn đối nghịch nhau: con chiên thì hiền lành, đơn sơ bao nhiêu, thì con sói lại độc ác và tinh ranh bấy nhiêu. Cho nên, khi Chúa Giêsu nói: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói”, thì Người làm nổi bật những nguy hiểm, đe dọa, thử thách mà các môn đệ sẽ phải đối diện.

Rao giảng giữa bách hại

Một cách cụ thể, tôi mời anh chị em nhớ lại đời sống của các thánh Tông đồ thuở ban đầu. Nếu anh chị em đọc sách Công vụ Tông đồ, thì sẽ thấy các Tông đồ khi đi rao giảng đã phải đối diện với những gì.

Thánh Phêrô bị bắt, rồi bị đưa ra tòa, và người ta ra lệnh là không được rao giảng về ông Giêsu nữa. Nhưng ngài vẫn tiếp tục rao giảng. Rồi thánh Stêphanô bị ném đá cho đến chết, và các Kitô hữu thời đó phải tản mát về khắp nơi, đến những miền xa xôi hẻo lánh để giữ đạo. Đó là ngay trong xã hội Do Thái. Ngoài ra, còn có những đe dọa đến từ Đế quốc Rôma.

Anh chị em thấy, Chúa Nhật vừa rồi chúng ta mừng lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Cả hai vị đó đều chịu chết vì danh Chúa. Ở đâu? Ở Rôma – trung tâm của Đế quốc Rôma. Và nếu anh chị em có dịp đi sang Rôma, thì chắc người ta sẽ dẫn anh chị em đi thăm những nơi gọi là “hang toại đạo”. Ba thế kỷ bắt bớ và bách hại đã khiến các Kitô hữu thời bấy giờ phải chui rúc trong những hang toại đạo, ở ngoài nghĩa địa, để cử hành phụng vụ.

Cho nên, đúng là Chúa Giêsu đã nói: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói.” Nhưng điều lạ lùng là sau 300 năm bắt bớ và bách hại như vậy, thì những vua chúa, những thế lực đe dọa và giết chết các Kitô hữu đã biến mất hết rồi, còn Giáo hội thì vẫn tồn tại. Và khi anh chị em thấy đền thờ Thánh Phêrô – trung tâm của Giáo hội Công giáo – thì chúng ta phải nhớ rằng đền thờ ấy được xây dựng trên nấm mồ của thánh Phêrô, người đã chịu chết vì danh Chúa ở Rôma.

Cũng vậy, khi anh chị em thấy đền thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, tức là ở bên ngoài thành Rôma, thì phải biết rằng đền thờ ấy được xây dựng trên nấm mồ của thánh Phaolô, người đã hy sinh vì danh Chúa. Cho nên, câu Chúa Giêsu nói: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” – câu đó rất cụ thể chứ không phải là một hình ảnh văn học hay chỉ để nói cho hấp dẫn.

Vậy thì bây giờ, chúng ta tự hỏi: ngày hôm nay thì sao? Còn cảnh đó không?

Thử thách không hề vơi

Có lẽ anh chị em sẽ ngạc nhiên khi nghe Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói một cách chính thức thế này: “Ngày nay, số người phải chịu chết vì đạo còn nhiều hơn thuở ban đầu của Giáo hội.”

Chúng ta ở đây đi lễ, đến nhà thờ thoải mái, chắc anh chị em không nghĩ rằng vẫn còn những nơi mà người ta bị bắt bớ, bị bách hại, bị giết chết vì đạo. Nhưng mà có đấy. Còn nhiều hơn cả thuở ban đầu.

Ở bên Nigeria chẳng hạn, các linh mục, rồi giáo dân bị bắt, bị giết chết. Có người bị chặt đầu ở một vài nước Trung Đông. Các cộng đoàn Kitô hữu Công giáo bị đe dọa rất nhiều.

Ở gần chúng ta hơn – Sri Lanka – cách đây ít năm, người ta đánh bom nhà thờ: 40 thiếu nhi chết.

Và ở những nơi khác, có thể người ta không bắt bớ, không bách hại theo kiểu dã man bên ngoài, nhưng lại rất tinh vi. Chẳng hạn, có quốc gia gần với chúng ta đây, cấm trẻ em dưới 16 tuổi không được đến nhà thờ. Chắc người ta muốn triệt hạ tương lai của Giáo hội thôi. Rất tinh vi.

Cho nên, lời của Chúa Giêsu vẫn còn sống động lắm.

Cầu xin cho sứ mạng truyền giáo

Vậy thì chúng ta phải làm gì? Chính Chúa Giêsu nói với chúng ta thế này: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin Chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (x. Mt 9,37-38) Và tôi chắc rằng cộng đoàn của chúng ta thuộc lòng bài hát Lúa chín đầy đồng...

Tôi chỉ xin thêm một điều này thôi: chúng ta hãy cầu nguyện để có thêm nhiều nhà truyền giáo – nhưng là những nhà truyền giáo đầy xác tín, đầy nhiệt tâm và can đảmTại sao tôi nói như thế? Là bởi vì, khi đọc lại lịch sử của Giáo hội, anh chị em sẽ thấy các thánh Tông đồ ngày xưa đã sống như thế nào.

Can đảm và xác tín

Thánh Phêrô khi bị bắt, bị đưa ra tòa và bị cấm không được giảng về Chúa Giêsu nữa, thì ngài trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” (Cv 5,29) – đầy xác tín!

Thánh Phaolô cũng vậy. Ngài tuyên bố: “Tôi biết tôi đã tin vào ai.” (x. 2Tm 1,12) – một niềm xác tín mãnh liệt vào Chúa Giêsu!

Thánh Stêphanô khi bị ném đá cho đến chết, ngài ngước mắt lên trời và tuyên bố với mọi người: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” (Cv 7,56) – một lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu.

Cho nên, các ngài tràn đầy xác tín. Và với niềm xác tín ấy, các ngài đầy nhiệt tâm. Đến nỗi, thánh Phaolô Tông đồ nói: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9,16) Ngài coi việc rao giảng Tin Mừng là sự sống của mình – xác tín, đầy nhiệt tâm, và can đảm, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, mọi khó khăn, mọi hình khổ, kể cả cái chết, để chu toàn sứ mạng.

Rao giảng bằng đời sống chứng tá

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Giáo hội có nhiều nhà truyền giáo. Nhưng không chỉ là “nhiều” nhà truyền giáo, mà là những nhà truyền giáo đầy xác tín, đầy nhiệt tâm và ơn can đảm. Bởi vì, chỉ có như thế, Tin Mừng của Chúa Giêsu mới được mạnh mẽ loan báo và làm chứng trong thời đại của chúng ta hôm nay. Amen.

– + ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm

HÃY CẦU NGUYỆN VÀ MẠNH DẠN RA ĐI

Thiên Chúa là Đấng an ủi và mời gọi chúng sống niềm vui cứu độ và sai chúng ta mang niềm vui ấy cho thế giới đang đói khát sự bình an và hy vọng.

Niềm vui an ủi

Trong bối cảnh lịch sử, dân Israel vừa trở về sau cuộc lưu đày ở Babylon, mang trong mình những vết thương. Thiên Chúa dùng hình ảnh người mẹ để an ủi vỗ về dân Israel : “Hãy vui mừng với Giêrusalem” (Is 66,10), như người mẹ hiền ẵm con vào lòng. “Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con” (Is 66, 13). Qua đó, chúng ta hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại: Ngài không bao giờ bỏ rơi dân Ngài. Dù có trải qua thử thách, đau khổ, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, an ủi, và ban lại bình an. Đây chính là nền tảng cho sứ mạng truyền giáo.

Thập giá 

Thập giá, vốn là biểu tượng của khổ đau và ô nhục, nhưng qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su, lại trở thành nguồn ơn cứu độ và là niềm vinh dự của Ki-tô hữu.

Thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng: Người mang danh Ki-tô hữu không được tự hào vì lề luật, thành tích hay công trạng cá nhân, mà vì được liên kết với Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Đây là một cuộc “tái tạo” nhờ thập giá, người môn đệ được biến đổi, trở nên tạo vật mới.

Điều này giúp chúng ta ý thức rằng: Truyền giáo không phải là đi rao giảng một triết lý đạo đức, mà là loan báo Đức Ki-tô chịu đóng đinh và phục sinh.

Nguyện cầu

Thật ý nghĩa, khi lời Chúa Giê-su nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. ” (Lc 10,2). Thôi thúc chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội. Lời thánh ca do Mai Nguyên Vũ sáng tác, chúng ta hát nhiều lần trong đời, hát với vẻ hăng say. Hát đấy, nhưng chúng ta có mường tượng ra rằng, chính chúng ta phải dấn thân không? “Hãy ra đi rao giảng Tin Mừng, bước hiên ngang trên đường truyền giáo. Kìa đồng lúa chín ngát trời, triệu nhành đong đưa vẫy mời, sóng lúa vàng dạt dào mơ ước“.

Nhìn cánh đồng truyền giáo thật bát ngát bao la, Chúa đang cần thợ gặt, nhưng không dễ để mà có. Vì khó nên Chúa mới nài nỉ chúng ta xin Chúa Cha, tức là cầu nguyện: “Hãy xin Cha sai nhiều Tông Đồ, biết hăng say đi mở nước Chúa.”

Chúng ta đừng quên rằng: Cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên. Các người thợ đã không được chọn qua các chiến dịch quảng cáo hay kêu gọi phục vụ quảng đại, nhưng được Thiên Chúa “chọn” và “sai đi”. Chính Chúa tuyển chọn và sai đi, chính Chúa ban sứ mệnh. Vì thế cầu nguyện thật quan trọng. Ðức cố Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI đã lập lại với chúng ta rằng: “Giáo Hội không phải của chúng ta, mà là của Thiên Chúa. Biết bao lần chúng ta, những người được thánh hiến, chúng ra nghĩ rằng nó là của chúng ta“. Ngài khẳng định như thế với các Hồng Y đoàn khi thoái vị: “Giáo Hội không phải của anh em, mà là của Thiên Chúa; Chúa có cách làm của Chúa.” (Diễn văn cuối cùng với Hồng Y đoàn).

Như thế, sứ mệnh truyền giáo là ơn thánh, nên “việc truyền giáo phải làm trên đầu gối”, tức là quỳ xuống mà cầu nguyện. Nhạc sĩ Mai Nguyên Vũ sáng tác cũng rất tinh tế về ca từ dựa trên Lời Chúa giúp chúng ta cầu nguyện: Nguyện Chúa ghé mắt đến Giáo Hội dấu ái, nguyện Chúa giáng phúc xuống cho vị Cha chung. Nguyện Chúa thánh hóa các linh mục khắp chốn, dẫn dắt đám chiên lạc muôn phương về một đàn chiên duy nhất.

Thiên Chúa luôn mời gọi con người cộng tác trực tiếp vào sứ mệnh của Người. Sứ điệp sai đi của Chúa Giê-su vẫn còn rất thời sự với chúng ta. Chủ đề cho Ngày Truyền Giáo Thế Giới năm 2025 là: “Mang hy vọng trong một thế giới khủng hoảng“. Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô mời gọi chúng ta: “Tôi khuyến khích tất cả anh chị em, từ trẻ em, thanh thiếu niên, người lớn cho đến người cao tuổi, tích cực tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng chung, qua chứng tá đời sống, qua lời cầu nguyện, những hy sinh và lòng quảng đại của anh chị em.” (trích Sứ điệp truyền giáo năm 2025).

Trong xã hội ngày nay, “thuộc về Giáo hội không bao giờ là một thực tại đạt được một lần cho mãi mãi“. Vì thế, công cuộc truyền giáo đòi hỏi một sự kết hợp giữa cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên, và là sức mạnh đầu tiên của niềm hy vọng. Hãy để cho lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa hy vọng và nhanh chân tiến bước đi loan báo Tin Mừng. Hãy cộng tác phần mình bằng lời cầu nguyện và hoạt động, bằng vật chất, bằng chứng tá cá nhân của mỗii người.

Lạy Chúa, này con đây, xin sai con đi.

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

SỐNG VÀ LOAN BÁO NIỀM VUI, BÌNH AN

Con người luôn khao khát tìm kiếm niềm vui, bình an và ý nghĩa cuộc sống. Nhưng những biến chuyển không ngừng của xã hội hiện đại, từ xung đột chính trị, bất ổn kinh tế, đến những áp lực cá nhân, khiến nhiều người cảm thấy lạc lối. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mang đến một thông điệp hy vọng, niềm vui đích thực và sứ mệnh lan tỏa bình an ngay trong gian khổ, vì niềm vui và bình an không phải là điều xa vời, mà là ân sủng Thiên Chúa ban tặng cho những ai đặt niềm tin vào Ngài.

Lời Hứa Về Bình An và Vinh Quang

Ngôn sứ Isaia mang đến một lời mời gọi đầy hy vọng: “Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì Thành Đô mà hoan hỷ” (Is 66:10-14). Đây là lời hứa về sự phục hồi toàn diện, nơi Thiên Chúa ban tặng bình an và vinh quang cho dân Ngài. Isaia viết: “Ta sẽ khiến ơn thái bình chảy đến như dòng sông cả, và của cải muôn dân tuôn về như thác đổ” (Is 66:12). Bình an mà Thiên Chúa hứa ban không chỉ là sự vắng bóng chiến tranh hay xung đột, mà là một tình trạng hài hòa sâu sắc, nơi con người được kết hiệp với Thiên Chúa và sống viên mãn trong tình yêu Ngài.

Hình ảnh “như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ” và “được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối” (Is 66:11-12) diễn tả tình yêu dịu dàng, gần gũi của Thiên Chúa, giống như tình mẫu tử. Đây là một tình yêu không chỉ nuôi dưỡng mà còn xoa dịu những vết thương sâu kín trong tâm hồn. Lời hứa này đặc biệt ý nghĩa trong những thời khắc đau khổ, khi con người đối diện với mất mát, thất bại, hay tuyệt vọng. Thiên Chúa, như một người mẹ, không chỉ thấu hiểu nỗi đau của con cái mà còn ban tặng sự an ủi, khiến “thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh” (Is 66:14). Thông điệp này nhắc nhở rằng niềm vui đích thực không đến từ những thành công trần thế, mà từ sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống.

Giêrusalem: Giáo Hội và Nước Trời

Trong truyền thống Kitô giáo, Giêrusalem không chỉ là một thành phố vật chất mà còn là biểu tượng của Giáo Hội và Nước Trời. Thánh Augustinô nói chỉ trong mối tương quan với Thiên Chúa, con người mới tìm thấy ý nghĩa và sự bình an sâu xa mà thế gian này, với những giá trị tạm bợ, không thể mang lại. Thánh nhân nhấn mạnh rằng niềm vui, bình an và công lý đích thực chỉ được tìm thấy trong Thành Đô của Thiên Chúa: “Trong Thành Đô của Thiên Chúa không theo sự khôn ngoan của loài người, mà chỉ có sự tin kính, thờ phượng Thiên Chúa chân thật và mong đợi phần thưởng trong cộng đoàn của các thánh nhân, của các thiên thần thánh thiện cũng như của những con người thánh, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (Quyển XIV, Chương 28).

Đức Phanxicô, trong thông điệp Fratelli Tutti, tiếp tục ý tưởng này khi kêu gọi xây dựng “một nền văn hóa mới”, trong đó mọi người sống trong tình huynh đệ và cùng nhau nỗ lực vì sự hòa hợp: “Cuộc sống là nghệ thuật gặp gỡ giữa biết bao bất đồng. Đã nhiều lần tôi mời gọi phát triển một nền văn hóa gặp gỡ vượt lên những biện chứng đối kháng nhau. Đó là một lối sống nhằm tạo nên một khối đa diện với nhiều góc cạnh, nhưng vẫn là một thể thống nhất mang nhiều sắc thái, bởi vì “toàn thể lớn hơn thành phần”. Khối đa diện này là hình ảnh của một xã hội có nhiều khác biệt, bổ sung, làm phong phú và soi sáng lẫn nhau cho dù vẫn có những bất đồng và ngờ vực. Thật vậy, người ta có thể học hỏi lẫn nhau, không ai là vô dụng, không ai là thừa thãi” (số 215). Vì thế, “khối đa diện này” không chỉ là một biểu tượng tôn giáo mà còn là lời mời gọi hành động. Đó một xã hội lý tưởng, nơi con người sống theo các giá trị của Tin Mừng, yêu thương và phục vụ lẫn nhau. Trong thế giới ngày nay, với những chia rẽ về sắc tộc, tôn giáo và chính trị, lời mời gọi xây dựng một “Giêrusalem mới” trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Đóng Đinh Tính Xác Thịt và Trở Thành Thụ Tạo Mới

Thánh Phaolô tuyên bố: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6:14). Đối với Thánh Phaolô, thập giá là trung tâm của đời sống Kitô hữu, là nguồn mạch của sự đổi mới và bình an. Ngài viết: “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6:14). “Thế gian” ở đây không chỉ là thế giới vật chất, mà là hệ thống giá trị sai lệch, những cám dỗ và tham vọng không đặt nền tảng trên Thiên Chúa.

Khi một người chấp nhận thập giá, họ từ bỏ sự chi phối của thế gian và mở lòng đón nhận ân sủng của Chúa. Qua thập giá, con người được tái sinh thành “một thụ tạo mới” (Gl 6:15), vượt qua những nghi thức bề ngoài như cắt bì hay các quy tắc tôn giáo cứng nhắc. Sự đổi mới này không chỉ là một thay đổi nội tâm mà còn là một cách sống mới, nơi con người sống vì Thiên Chúa và vì tha nhân.

Thánh Phaolô khẳng định: “Tôi mang trên mình tôi những dấu tích của Chúa Giêsu” (Gl 6:17). Những “dấu tích” này là các vết sẹo mà ngài chịu đựng vì rao giảng Tin Mừng – từ những lần bị đánh đập, tù đày, đến sự bách hại. Những dấu vết này không phải là biểu tượng của sự thất bại, mà là bằng chứng của lòng trung thành và tình yêu hy sinh. Lời chúc phúc của Thánh Phaolô – “Chúc Israel của Thiên Chúa được hưởng bình an và lòng thương xót của Ngài” (Gl 6:16) bao gồm tất cả những ai tin vào Chúa Kitô và sống theo con đường trở thành thụ tạo mới.

Thánh Gioan Kim Khẩu gọi thập giá là “niềm hy vọng của các Kitô hữu” và là biểu tượng của chiến thắng trước sự dữ (Bài giảng về Thập Giá). Theo ngài, thập giá không chỉ là công cụ của sự đau khổ, mà là biểu tượng của tình yêu và sự cứu chuộc. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng nhấn mạnh: “Thập giá là mặc khải tối cao của tình yêu Thiên Chúa” (Bài giảng Lễ Lá, 2007). Thập giá không phải là sự áp đặt hay hình phạt, mà là con đường tự nguyện mà Chúa Kitô đã chọn để cứu rỗi nhân loại. Qua thập giá, con người được mời gọi tham dự vào tình yêu hy sinh của Ngài.

Trong Thế chiến II, Corrie và gia đình bà đã liều mạng giấu những người Do Thái khỏi sự truy lùng của Đức Quốc Xã. Khi bị phát hiện, Corrie và chị gái Betsie bị đưa đến trại tập trung Ravensbrück, nơi họ phải đối mặt với những điều kiện sống khắc nghiệt và sự tàn bạo của chiến tranh. Tuy nhiên, ngay cả trong hoàn cảnh đen tối nhất, Betsie vẫn tìm thấy hy vọng và bình an trong đức tin vào Thiên Chúa.

Trong cuốn “Nơi Ẩn Náu” Corrie kể lại cách Betsie khuyến khích bà nhận ra ánh sáng giữa bóng tối. Betsie tin rằng tình yêu của Thiên Chúa có thể chạm đến mọi hoàn cảnh, ngay cả trong trại tập trung. Một lần, khi bị giam trong một căn phòng chật chội đầy rận, Betsie đã cảm tạ Chúa vì những con rận, bởi chúng khiến lính canh tránh xa, cho phép các tù nhân tổ chức cầu nguyện. Chính đức tin này đã giúp Corrie tìm thấy niềm vui và ý nghĩa, đúng như lời Tiên tri Isaia: “Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc, thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh” (Is 66:14). Sau khi được thả, Corrie tiếp tục sứ mệnh chia sẻ Tin Mừng, mang niềm vui và hy vọng đến với thế giới.

Được sai đi mang bình an đến mọi người

Chúa Giêsu sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, một con số mang tính biểu tượng cho sứ mệnh phổ quát của Giáo Hội. Ngài căn dặn: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10:3). Lời này vừa là lời cảnh báo về những thách thức, vừa là lời khẳng định về sự quan phòng của Thiên Chúa. Các môn đệ không mang theo hành trang vật chất, mà chỉ mang lời chúc phúc: “Bình an cho nhà này!” (Lc 10:5). Bình an - Shalom - trong truyền thống Do Thái không chỉ là sự yên ổn, mà là sự trọn vẹn, sức khỏe, và hạnh phúc tràn đầy. Tuy nhiên, bình an này cần được đón nhận với lòng tin.

Các môn đệ được sai đi để chữa lành bệnh nhân và loan báo: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10:9). Hành động chữa lành và lời rao giảng này là dấu hiệu của quyền năng Thiên Chúa, minh chứng rằng Nước Trời không phải là một viễn cảnh xa xôi, mà là một thực tại đang hiện diện, khẳng định rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, bất kể thái độ của con người.

Khi các môn đệ trở về, họ hân hoan báo cáo: “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” (Lc 10:17). Chúa Giêsu xác nhận quyền năng của họ, nhưng đồng thời nhắc nhở: “Anh em chớ vui mừng vì quỷ thần khuất phục anh em, nhưng hãy vui mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10:20). Lời này nhấn mạnh rằng niềm vui đích thực không nằm ở những thành công tạm thời, mà ở mối hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa. Sứ mệnh rao giảng không phải là để tìm kiếm danh vọng, mà là để làm chứng cho tình yêu và vinh quang của Ngài.

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định rằng sứ mệnh rao giảng là công bố vinh quang của Thiên Chúa và làm cho Vương quốc Ngài hiện diện trong thế giới: “Giáo Hội có "sứ mệnh loan truyền và khai mở Vương Quốc của Thiên Chúa cũng như Vương Quốc của Chúa Kitô nơi mọi dân nước” (Thông điệp Redemptoris Missio, số 18). Mỗi Kitô hữu được mời gọi trở thành sứ giả của Tin Mừng, mang bình an và hy vọng đến mọi ngõ ngách của xã hội: “Tin Mừng dành cho mọi người, không chỉ cho một số người. Tin Mừng không chỉ dành cho những người có vẻ gần gũi với chúng ta hơn, dễ tiếp thu hơn, chào đón hơn. Tin Mừng dành cho mọi người. Đừng sợ ra đi và mang Chúa Kitô đến mọi lĩnh vực của cuộc sống, đến tận rìa xã hội, thậm chí đến những người có vẻ xa cách nhất, thờ ơ nhất. Chúa tìm kiếm tất cả, Ngài muốn mọi người cảm nhận được sự ấm áp của lòng thương xót và tình yêu của Ngài” (ĐGH Phanxicô, Thánh lễ bên bờ sông Copacabana, Rio de Janeiro, ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 28, 28.07.2013)   

Niềm vui và bình an không phải là sự vắng bóng thử thách, mà là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Lời mời gọi cuối cùng dành cho mỗi người là: Bạn có cảm thấy được sai đi để mang bình an của Chúa đến cho người khác không? Hãy để tình yêu của Chúa Kitô dẫn dắt bạn, để bạn trở thành ánh sáng và hy vọng trong một thế giới đang khao khát niềm vui và bình an.

Phêrô Phạm Văn Trung

SỨ VỤ CỦA NHÓM BẢY MƯƠI HAI

            Lu-ca 10,1-24 (mà bài đọc phụng vụ hôm nay đã lược bớt các câu 13-16 và 21-24) là một tổng thể rất phong phú, mang tên “Chuyến truyền giáo của Nhóm Bảy Hai”. Nó vừa đặt nền tảng cho sứ vụ của nhiều môn đệ nơi các vùng lương dân vừa là một chỉ đạo cho thái độ của các nhà truyền giáo. Đấy là một bức song bình : việc sai Nhóm Bảy Hai đi truyền giáo (cc. 1-16) và việc họ đi truyền giáo trở về (cc. 17-24). Ngoại trừ khẳng định vắn gọn nơi c. 17b, sứ vụ của họ không được kể lại chi tiết ; vì đó sẽ là chính nội dung trong tập thứ hai của cùng tác giả, Công vụ Tông đồ.

            1- 72 môn đệ được sai đi truyền giáo.

            Ngoài tính chất sang sảng, diễn từ của Đức Giê-su (từ câu 2 trở đi) rõ ràng sóng đôi với diễn từ ngỏ với Nhóm Mười Hai trước đấy (9,3-5). Như thế, đó là hai cuộc sai đi truyền giáo tạm thời của hai nhóm có số lượng khác nhau mà Lu-ca kể lại suốt sứ vụ của Đức Giê-su, đang khi Mát-thêu và Mác-cô chỉ kể có một (sứ vụ của Nhóm Tông đồ).

            “Bảy mươi hai môn đệ khác” này chẳng phải là những kẻ báo hiệu như mấy sứ giả ở 9,52, song đúng là những đại diện toàn quyền mà, tựa Nhóm Mười Hai, có uy lực trên các thần dữ và công bố Triều đại Thiên Chúa đến gần. Thánh sử Lu-ca như thế khẳng định rằng sứ mệnh của Nhóm Mười Hai chẳng phải là sứ mệnh duy nhất bám rễ trong các chỉ thị của Đức Giê-su trước cuộc Vượt Qua. Và khi Đấng Phục sinh hiện ra, thì Nhóm Mười Một và các bạn hữu của họ đều được Người ban những chỉ thị truyền giáo của mình (24,33-36). Thành thử Lu-ca rõ ràng muốn cho thấy sứ mệnh truyền giáo là chung cho toàn thể Giáo hội, chứ không chỉ của một vài nhân vật, hay của hàng giáo phẩm. Con số bảy mươi hai cũng nằm trong ý nghĩa đó : nó diễn tả tầm mức rộng rãi của nhóm thừa sai mà trong Giáo hội luôn dựa trên Đức Giê-su, dù đó là Phi-líp-phê, Phao-lô trong Công vụ, hoặc là chính Lu-ca ! Con số ấy cũng ám chỉ St 10,2-31 là đoạn văn giới thiệu, qua bản Bảy mươi (Septante), danh sách 72 dân tộc trên khắp địa cầu. Những Ki-tô hữu phát xuất từ các vùng lương dân được phúc âm hóa đều có cùng những danh nghĩa, nếu xét về sứ mệnh, y như Nhóm Mười Hai vốn đã theo Đức Giê-su suốt cuộc sống trần thế của Người.

            Thành ra với tư cách Chúa Phục sinh , chủ tể các sứ vụ trong Giáo hội, mà Đức Giê-su đã sai họ đi từng hai người một. Con số này chẳng có tình cờ, vì phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng trong trường hợp tranh tụng (Đnl 19,15), một giả thuyết được dự kiến nơi cc. 10-11. Trong Công vụ, Lu-ca sẽ làm sáng tỏ công cuộc truyền giáo của các “cặp” như Phao-lô và Ba-na-ba (13,2-4), Ba-na-ba và Mác-cô, Phao-lô và Xi-la (15,39-40). Ba mươi sáu “cặp” này, Đức Giê-su sai vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến ; điều này chẳng gợi ý việc Chúa phục sinh sẽ tới vào lúc tận cùng thời gian sao?

            Diễn từ khởi sự bằng cách cho các thừa sai cuốn sổ những trách vụ (cc. 1-11). Việc đầu tiên là… cầu nguyện (c. 2) ! Theo truyền thống, mùa gặt là một ẩn dụ về cuộc Phán xét chung, và các thợ gặt tượng trưng Thiên Chúa lẫn các thiên sứ của Người (Is 27,12; Kh 14,14-20; x. Lc 3,17). Thế nhưng ở đây, mùa gặt diễn tả việc truyền giáo và chính các môn đệ thu hoạch. Y như ẩn dụ đánh cá (5,10), mùa gặt nói lên việc tập hợp cộng đoàn vào thời cánh chung vốn đã khởi sự. Trước sự chênh lệch giữa nhiệm vụ phải hoàn tất và việc thiếu thừa sai trong Giáo hội, chỉ có một chuyện phải làm là lấy đức tin hướng về Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể giải quyết vấn đề. Nếu không phải là chủ mùa gặt, Đức Giê-su vẫn xuất hiện như đốc công sai phái (c. 3) và tức khắc tiên báo sự thù nghịch đang chờ đợi đàn chiên của Người -một chủ đề lặp đi lặp lại trong diễn từ. Như với Nhóm Mười Hai (9,3), Người yêu cầu Nhóm Bảy Hai phó thác cho sự Quan phòng và -dữ kiện mới- phải vội vã đến độ đừng chào hỏi khách qua đường (c. 4) ; đấy từng là chỉ thị Ê-li-sa đã ra cho đầy tớ mình (2V 4,29). Thay vì ngỏ lời với các cá nhân gặp được, phải đến với các gia đình và các thành thị.

            Ở đây, quy tắc xác định các sứ giả phải đáp ứng thế nào trước việc tiếp đón hay khước từ họ (cc. 5-12). Hơn cả một lời chào hay một lời chúc, sự bình an -yên ổn, thoải mái tinh thần, tắt một lời là ơn cứu độ, x. 2,14- là một ân huệ thần linh họ mang đến nơi ở mà họ đi vào (cc. 5-7). Ai là con cái của bình an (đáng hưởng bình an), nghĩa là mở lòng đón nhận Tin Mừng Nước Trời và ơn cứu độ, thì sẽ lãnh được nó thực sự. Như nơi chương 9 câu 4, phải ở lại trong ngôi nhà đầu tiên đón tiếp mình. Đón tiếp, dọn cho ăn hiển nhiên là một sự trả công, đáp lại những ân huệ thiêng liêng do vị thừa sai mang tới (sứ đồ Phao-lô biết tới truyền thống này, 1Cr 9,14-18). Và ăn những gì họ dọn cũng là dấu chỉ cho thấy vị thừa sai được giải thoát khỏi mọi bó buộc của luật Mô-sê về các thức ăn nhơ và sạch. Khi mở rộng chỉ thị này đến các bữa ăn dùng trong bất cứ thành thị nào, đó cũng là phá hàng rào cấm người Do-thái đồng bàn với những kẻ không cắt bì, những kẻ bị coi là nhơ bẩn. Sứ giả có thể ăn tất cả mọi thứ, với bất cứ ai, chẳng cần băn khoăn tới những quy định của Lề luật.

            Từ các gia đình, diễn từ đi sang các thành thị (cc. 8-12). Như Nhóm Mười Hai (9,2), các tân thừa sai phải chữa những người đau yếu và loan báo Triều Đại Thiên Chúa trong các thành đón tiếp họ. Nét độc đáo nằm ở chỗ đây là lần đầu tiên, Đức Giê-su hai lần chỉ rõ Triều đại ấy đã đến gần (cc. 9.11) ; Người sẽ giải thích nơi 11,20 sự đến gần đó hệ tại điều gì. Trong những thành không tiếp đón, chẳng có việc chữa lành, nhưng chỉ có cử chỉ công khai và tượng trưng là giũ bụi khỏi chân sứ giả (như nơi 9,5) ; trong cả hai trường hợp, Triều đại TC được loan báo như đến gần, nhưng chỉ thực sự gần với những thành tiếp đón (c. 9). Với c.12, việc một thành từ chối đón tiếp các sứ giả mang lại nhiều hậu quả còn trầm trọng hơn trường hợp một ngôi nhà vốn chỉ thấy mình mất bình an. Lời cảnh cáo của Đức Giê-su có thể gây kinh ngạc, nhưng có cùng giọng điệu như những lời các ngôn sứ đi trước Người đã ngỏ : sự điêu tàn của Xơ-đôm, thành phố bị nguyền rủa nhất hạng (St 19; x. Ac 4,6) chẳng sánh được với những gì đang chờ đợi một thành không tiếp đón, vào Ngày Thiên Chúa sẽ tỏ mình cho nhân loại và sẽ xét xử. Ân huệ thần linh ban cho một thành -các sứ giả của Tin Mừng cứu độ- càng lớn bao nhiêu thì lỗi phạm từ khước nó và tai họa xác nhận việc đó càng lớn bấy nhiêu.

            2- 72 môn đệ đi truyền giáo trở về.

            Nếu Lu-ca đã phác họa việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai chỉ trong một câu (9,6) rồi tạm dừng (x. 9,10), thì ở đây ông trực tiếp chuyển sang sự trở về của Nhóm Bảy Hai trong một cảnh mà ngay từ đầu, đã thuộc riêng ông (10,17-20). Các sứ giả tường thuật lại cho Chúa thành công của họ trong việc trừ quỷ (trái ngược với 9,40). Sức mạnh chữa lành mà Thiên Chúa đã ban cho Con của Người (5,17; 8,46) nay hoạt động trong họ khi họ kêu cầu danh Đức Giê-su (x. Cv 3,6).

            Câu trả lời của Đức Giê-su trước hết cho thấy : đằng sau ma quỷ theo ngôn ngữ bình dân, có một quyền lực hung ác với nhiều biểu hiện đa dạng, được ngôi vị hóa ở đây dưới cái tên “Xa-tan” hay “Kẻ Thù” ; theo vũ trụ luận đương thời, quyền lực đó nằm trong các tầng trời dưới thấp -đang khi Thiên Chúa ở trên cõi trời cao (2,14). Đức Giê-su diễn tả cách tượng trưng niềm xác tín có nơi mình, dựa trên các cuộc trừ quỷ : nước của ác thần đang sụp đổ (x. 11,18). Người sẽ đưa ra lý do về việc này ở 1,20 : Nước Thiên Chúa đang ập đến và thay thế nước của Xa-tan. Từ nay, các môn đệ có thể can đảm đối đầu với các biểu hiện khác nhau của thần dữ, vì chúng đã lụy phục một quyền lực đến từ chính Đức Giê-su : để minh họa cho lời mình, Người nói tới rắn rết và bọ cạp (còn được liên kết ở 11,11-12). Theo Đnl 8,15, chúng là những nguy hiểm chí mạng đầu tiên mà dân Ít-ra-en gặp phải suốt cuộc Xuất hành. Lý do chính yếu của niềm vui nơi các đại diện của Đức Giê-su không phải tìm trong quyền năng của họ trên các mãnh lực của hỏa ngục, nhưng trong sự kiện Thiên Chúa đã ghi tên họ vào trong Sổ trường sinh : họ được hứa là sẽ thừa hưởng sự sống chẳng chấm dứt bao giờ.

            Câu chuyện Tin Mừng trên đây có thể xem như hoạt động truyền giáo của các thành phần ngoài hàng giáo phẩm, hay nói cách khác là của giáo dân qua mọi thời đại. Lịch sử Giáo phận Huế cho biết sau vụ Văn Thân “bình Tây sát Tả” (1883-1886), con số tín hữu thiệt mạng ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên lên tới 12 ngàn. Vị quản hạt Bên Thủy (vùng từ bờ nam sông Hương đến chân đèo Hải Vân) lúc ấy là cha Eugène-Marie Allys (1885-1908) quyết tâm khôi phục con số tín hữu đã mất bằng việc tung ra một chiến dịch truyền giáo sâu rộng. Cộng tác với ngài, ngoài một số linh mục, còn có một giáo dân kiệt xuất là cụ thượng thư Ngô Đình Khả. Và một trong những phương pháp chủ yếu là gởi tới vùng đất lương dân những gia đình Công giáo đạo đức lẫn nhiệt tâm tông đồ. Họ trở thành sức thu hút người ngoại đạo, gieo lòng cảm mến đức tin khiến những kẻ này xin học đạo, rồi việc dạy giáo lý sẽ giao cho các linh mục phụ trách. Về sau, khi trở thành Giám mục Giáo phận, Đức Cha Allys mở rộng việc truyền giáo từ đèo Hải Vân ra tới sông Gianh, rồi cũng theo phương pháp nói trên, và những tông đồ đắc lực vẫn là những cặp vợ chồng tín hữu gương mẫu tự nguyện đi làm muối men giữa nơi xa lạ. Thành quả cuối đời vị Giám mục kiệt xuất là 37 ngàn tân tòng. Lịch sử Giáo phận Huế cũng cho biết nhiều thành viên hội Đạo binh Đức Mẹ (Legio Mariae) do cha Matthêô Lê Văn Thành, quản xứ Nam Tây (1954-1959) lập tại Vạn Thiện (họ nhánh) đã lôi kéo được trên 300 lương dân tại làng Lâm Lang (gần Đông Hà) theo đạo.  

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.

Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.

Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.